1. Con quỷ kỳ thị chủng tộc
Lúc
tôi đang viết những giòng chữ này thi trên màn ảnh truyền hình đang
chiếu cảnh nhà lãnh tụ Phi châu Nelson Mandela, 71 tuổi, vị Thủ lãnh
lịch sử của Đại hội Dân tộc người Phi, được trả tự do sau 27 năm bị cầm
tù vì chống lại chủ nghĩa “Apartied” chủ trương phân biệt người da đen ở
Nam Phi. Một trong các pháo đài của chủ nghĩa chủng tộc cực đoan sắp
sụp đổ chăng? Tương lai sẽ trả lời. Dầu sao đi nữa, ngày nay nạn kỳ thị
chủng tộc vẫn còn đó, và lớp trẻ ý thức rõ vấn đề này, thậm chí họ còn
coi đó là một “xìcăngđan” nữa.
Đôi
khi chúng ta nghe thiên hạ bảo rằng: “Tôi không kỳ thị chủng tộc. Nói
thế rất dễ khi hằng ngày bạn không phải chạm trán với các vấn đề nảy
sinh do phải sống chung với những người di trú.”
Tại
Pháp, có gần 5 triệu người di trú, người tị nạn, và người nước ngoài.
Có người nói: “Mình chẳng còn được ở trên đất nước của mình nữa”. Kẻ
khác lại nói: “Bọn họ sắp ngốn mất bánh mì của dân Pháp rồi”.
Con
quỷ đẻ ra thuyết chủng tộc cực đoan từng ngủ yên trong mỗi người chúng
ta nay lại bừng thức dậy. Mạ lỵ, ẩu đả, phân biệt và thậm chí bách hại
đang liên tiếp xảy ra. Thật khó mà cảm thông một kẻ khác màu da, khác
tôn giáo và khác văn hoá với mình! Không phải lúc nào người ta cũng sẵn
sàng nhìn nhận các quyền lợi của dân di trú, sẵn sàng cùng với họ xây
dựng tương lai của đất nước.
Nhiều
tổ chức đang được huy động để chống lại dịch kỳ thị chủng tộc. Giới trẻ
ghét ra mặt khẩu hiệu này: “Đừng đụng tới nồi cơm của tôi!”
Giáo
hội Công giáo có lý khi phẫn uất trước thành kiến kỳ thị chủng tộc vẫn
còn tồn tại trong xã hội hiện nay. Lại một lần nữa, Giáo hội nêu rõ quan
điểm của mình trong một tài liệu vừa được Uỷ ban Công lý và Hoà bình
của Toà thánh công bố vào tháng 11.1988, có tên là “Giáo hội trước nạn
kỳ thị chủng tộc”. Đối với Giáo hội, bất cứ thuyết chủng tộc cực đoan
nào cũng đều đi ngược với Tin mừng.
2. Một căn bệnh xưa như trái đất
Thuyết
chủng tộc cực đoan là một hệ tư tưởng theo đó một nhóm người được xếp
hạng thấp hơn các nhóm khác, vì cớ chủng tộc của họ. Đây là lý do biện
minh cho mọi hành vi phân biệt, khai trừ thậm chí tiêu diệt những người
này.
Thời
Trung cổ La-Hy dường như không biết tới huyền thoại về chủng tộc. Than
ôi, vào thời Trung cổ Kitô giáo, người Do thái, vì là những con người
khăng khăng từ chối không tin vào Đức Kitô, nên đã thường phải chịu
nhiều điều nhục nhã và hắt hủi.
Vào thời đó, các Kitô hữu cũng đã tra tấn và hoả thiêu hàng ngàn người, theo án lệnh của Toà trừng giáo.
Việc
khám phá ra Tân thế giới kéo theo một sự huỷ hoại đối với các nền văn
hoá ở Trung Mỹ và Nam Mỹ, có trước khi Colombo đến, đồng thời áp đặt một
nền đô hộ tàn bạo lên dân chúng ở đó. Hẳn nhiên đó không phải là lỗi
của các nhà hàng hải vĩ đại ấy. Nhưng binh lính và các nhà doanh thương
thì lại chẳng kính nể ai. Người Indiens, rồi người da đen bị họ giết
chết hoặc bắt làm nô lệ để lao động sinh lời cho họ, và họ bắt đầu khởi
thảo ra một lý thuyết chủng tộc để biện minh cho mình.
Các
Đức thánh cha đã phản ứng kịch liệt, Đức giám mục Bartolomé de Las
Casas vĩ đại, vốn là một chiến sĩ sau đó đã đi tu dòng Đaminh, đã đấu
tranh chống lại thuyết coi dân Indiens là một giống người hạ cấp; Ngài
dạy phải kính trọng nhân phẩm dù người ấy thuộc bất cứ sắc dân hay tôn
giáo nào.
Nạn
buôn bán nô lệ da đen, bắt đầu từ năm 1562, cũng là một điều xấu hổ cho
giới Kitô hữu, mặc dù những kẻ làm điều này chỉ theo đạo Kitô trên danh
nghĩa mà thôi! Tình trạng này đã kéo dài suốt 3 thế kỷ. Các Đức thánh
cha và những nhà thần học đã đứng lên chống lại việc mãi nô này.
Chính
vào thế kỷ 18, một ý thức hệ chủng tộc cực đoan đã được thành hình, đi
ngược với giáo huấn của Hội thánh. Từ chỗ quan sát thấy có sự khác biệt
về đường nét thể lý và màu da, ý thức hệ này đã tìm cách kết luận có một
sự khác biệt sâu xa, mang tính di truyền, và khẳng định rằng các dân
tộc bất trị này vốn thuộc về các “sắc dân” tự bản chất thua kém hơn, về
các đức tính tinh thần, luân lý và xã hội.
Vào
thế kỷ 19, người ta còn tìm cách giải thích lịch sử các nền văn minh
bằng những thuật ngữ sinh học, coi đó như cuộc so tài giữa các chủng tộc
mạnh và các chủng tộc yếu, các chủng tộc yếu này bị xem như tự bản chất
đã thua kém các chủng tộc kia.
Chính
lối giải thích mang danh khoa học một cách ngu xuẩn này đã gợi hứng cho
chủ nghĩa phát xít Đức. Ta đã biết rõ các tội ác do chủ nghĩa ấy gây
ra: diệt chủng đối với người Do thái, cùng với người “gitan” và người
“digan”. Đức thánh cha Pio XI đã nghiêm khắc lên án các thuyết phát xít.
Sau
chiến tranh thế giới lần thứ nhất cũng có nạn diệt chủng người Ácmêni
và gần đây hơn, có nạn diệt chủng phần lớn người Cam bốt.
Như ta đã thấy chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc đã vấy quá nhiều máu. Cần phải kịch liệt chống lại nó.
3. Các hình thức kỳ thị chủng tộc ngày nay
Tiếc thay, thuyết chủng tộc cực đoan vẫn còn tồn tại đến cuối thế kỷ 20 này.
Đôi
khi nó còn được luật pháp bảo vệ nữa. Đó là trường hợp chủ nghĩa
“Aparteid” ở Cộng hoà Nam Phi, nơi mà người da màu chiếm 80% dân số
trong nước. Người da trắng chỉ có 20% muốn bảo vệ quyền bính và lợi lộc
của mình, đã đề ra một hệ thống chính trị phân biệt chủng tộc, thành lập
các cộng đồng riêng rẽ. Dù có những tiến bộ mới đây, phần lớn dân da
đen vẫn chưa được đại diện thật sự trong guồng máy chính quyền quốc gia
và chỉ được là “công dân” trên danh nghĩa thôi. Nạn phân biệt chủng tộc
vẫn còn đó. Thậm chí người ta còn tìm cách dùng tôn giáo để hợp pháp hoá
thế thượng phong của dân da trắng đối với người da đen nữa.
Tuy
nhiên, ta biết có nhiều giám mục Công giáo Nam Phi chung lưng sát cánh
với đa số các Hội thánh Kitô giáo trong vùng để dấn thân tranh đấu cho
sự bình đẳng và chống lại chủ nghĩa Aparteid.
Desmond
Tutu, một giám mục Anh giáo, được giải Nobel Hoà bình, khẳng định niềm
tự hào vì mình là người da đen! “Thiên Chúa không lầm lẫn khi Người dựng
nên tôi là người da đen. Tôi không phải là một bản sao bằng than, tôi
là bản gốc. Tất cả chúng ta là những bản gốc cả.”
Tại
một số quốc gia vẫn còn tồn tại những hình thức phân biệt chủng tộc đối
với những sắc dân chậm tiến. Ta không thể không nghĩ tới các người
Indiens ở Bắc Mỹ đã bị tàn sát xưa kia, con cháu của họ nay lại bị cách
ly trong các khu vực hạn chế hay bị bắt buộc phải đồng hoá mà không kể
gì đến quyền được phép giữ bản sắc riêng của dân tộc họ. Mặt khác, Hoa
Kỳ đã cố gắng giải quyết từ từ vấn đề của người da đen.
Nhưng
trên thế giới vẫn còn những nhóm người thiểu số mà các quyền của họ
không được kính trọng đủ. Các bạn hãy nghĩ tới dân Palestina.
Hiện
nay vẫn còn nạn bài Do thái, chưa chịu biến mất hoàn toàn sau khi dân
tộc họ bị “thiêu sinh”. Các hành động khủng bố nhắm đến những nhân vật
và những biểu tượng của dân Do thái xảy ra nhiều hơn trong các năm gần
đây.
Dân
di trú là một vấn đề lớn của thời đại, nhất là những người gốc
Maghrébine, đến tìm việc tại các nước giàu có hơn. Vấn đề này thật nan
giải. Các thành kiến đối với người di trú có thể dẫn đến những phản ứng
nguy hiểm như tạo ra chủ nghĩa dân tộc cực đoan, sau đó biến thành chủ
nghĩa bài ngoại, hay thậm chí thành mối hiềm thù về chủng tộc.
Các
biểu hiện kỳ thị chủng tộc này dẫn đến hậu quả là khiến cho các công
nhân nước ngoài phải quy tụ nhau lại thành từng nhóm và sống thành những
“ghetto”, khiến cho họ chậm hội nhập vào trong một xã hội đã đón nhận
họ về mặt hành chánh, nhưng lại không chịu tiếp nhận họ một cách đầy đủ
về mặt nhân bản. Chúng ta hãy cố gắng để thông cảm với họ, bởi họ cũng
là những người anh em của ta.
4. Phẩm giá của mọi chủng tộc
Đức
tin Kitô giáo và các dữ kiện khoa học hiện đại đều ăn khớp với nhau khi
cùng công nhận rằng tất cả mọi người đều thuộc về một chủng loại, đều
xuất phát từ cùng một nguồn gốc. Như vậy, không có chủng tộc nào là
thượng đẳng về mặt di truyền học và sinh học cả.
Hẳn
nhiên là mọi người không có khả năng thể lý, sức mạnh trí tuệ hoặc sức
mạnh luân lý ngang nhau. Thế nhưng, bất cứ hình thức phân biệt nào đụng
chạm đến các quyền căn bản của nhân vị, dựa trên phái tính, chủng tộc,
màu da, tiếng nói hay tôn giáo, thảy đều đi ngược với ý định của Thiên
Chúa là Cha của mọi người. Công đồng Vatican II cũng như các Đức thánh
cha đã mạnh mẽ nhắc lại điều này.
Thiên
Chúa đã tạo nên con người theo “hình ảnh của Ngài”. Chính điều này
khiến cho mỗi hữu thể nhân linh đều có một phẩm giá trổi vượt. Cũng
chính điều này làm cho loài người được hiệp nhất, loài người phát xuất
từ bàn tay của một Đấng Hoá Công duy nhất. Không một cá nhân, một xã
hội, một quốc gia, hay một tổ chức nhân loại nào, có thể giản lược con
người xuống tình trạng một đồ vật cả.
Hơn
thế nữa, khi mặc lấy xác thể từ Đức Trinh Nữ Maria, Đức Giêsu Kitô, Con
Thiên Chúa làm người, đã một cách nào đó tự động trở nên một với từng
người trong nhân loại. Bất cứ điều gì ta làm cho con người cũng đều đụng
chạm đến chính Thiên Chúa. Đức Giêsu đến thâu họp nhân loại trong một
Thân Thể duy nhất là Hội thánh, chỉ có một thân thể tuy có nhiều chi thể
khác nhau.
Như
vậy, Thiên Chúa yêu thương hết thảy mọi người. Thiên Chúa không kỳ thị
chủng tộc. Trong suốt cuộc đời tại thế của mình. Đức Giêsu Kitô không hề
khinh miệt một người nào, thậm chí Người còn quan tâm đặc biệt hơn đối
với những kẻ bị con người thời ấy khai trừ. Mỗi hữu thể nhân linh đều có
một giá trị lớn lao đến nỗi Thiên Chúa đã ban chính Con mình để cứu độ
họ.
Bởi
thế, Hội thánh luôn kính trọng và yêu thương mọi người. Trong lòng Hội
thánh sẽ không thể có sự bất bình đẳng về chủng tộc, quốc gia, điều kiện
xã hội hoặc phái tính. Hội thánh hãnh diện vì đặc tính công giáo của
mình, nghĩa là Hội thánh có tính cách toàn cầu.
Hội
thánh không đơn thương độc mã trong cuộc chiến đấu bảo vệ phẩm giá con
người. Đại hội năm 1978 của một tổ chức Liên hiệp quốc là U.N.E.S.C.O.,
đã nhắc lại phẩm giá con người và lên án mọi hình thức phân biệt dựa
trên chủng tộc, màu da, đất nước hoặc tôn giáo. Tất cả mọi người đều
bình đẳng về quyền lợi và phẩm giá.
5. Vậy tôi có thể làm gì?
Bạn
ạ, bạn phẫn nộ trước cảnh phân biệt chủng tộc như vậy là rất hợp tình
hợp lý, và bạn muốn ban cho đời mình một ý nghĩa bằng cách đấu tranh một
cách đặc biệt chống tai hoạ này. Tôi hết sức thông cảm với bạn!
Vậy
thì bạn hãy tập hiểu biết người khác, người di trú, người nước ngoài.
Bạn hãy tìm hiểu cách sống của họ cùng với các phong tục tập quán, tôn
giáo, quê cha đất tổ, cũng như các lý do thúc đẩy họ đến tìm việc trong
nước bạn. Ban hãy xem hiện nay người ta đang cung ứng cho họ các điều
kiện sinh sống như thế nào về việc làm, nhà ở, việc học hành của con
cái, trợ cấp xã hội…
Nếu
thay đổi tâm hồn, bạn sẽ thấy nhiều thành kiến biến mất. Xin bạn chớ
quên rằng: người thân cận của bạn chính là bất cứ ai mà bạn gặp gỡ trên
đường.
Tiếp
đó bạn hãy đón nhận người khác với các điểm dị biệt của họ. Đây chính
là một hình thức kính trọng tha nhân. Hiệp nhất không phải là đồng nhất.
Bạn hãy xem chúng ta có thể dùng các dị biệt của mình để làm gì cho
nhau. Vấn đề là đánh giá một cách tích cực sự đa dạng bổ túc cho nhau
giữa các dân tộc. Đón nhận người khác là đã kiến tạo tình huynh đệ rồi
đó.
Sau
cùng, bạn hãy dấn thân đấu tranh chống lại mọi hình thức chủng tộc cực
đoan. Người Công giáo được mời gọi hoạt động trên mặt trận ấy bên cạnh
các Kitô hữu khác và hết thảy những ai hết lòng kính trọng con người.
Hẳn
nhiên, phải dành cho giới chính phủ quyền xác định rằng nước mình có
thể đón nhận được bao nhiêu người di trú và tị nạn. Về phần bạn, xin bạn
hãy làm sao cho hết thảy những ai đang sống trên đất nước mình đều được
bình đẳng trước pháp luật. Ước gì mỗi người đều có thể hưởng nhờ các
điều kiện sống xứng đáng với mình theo lẽ công bằng. Điều này cũng có
liên hệ đến nền hoà bình quốc gia và quốc tế.
Vấn
đề người di trú là một thách đố lớn vào cuối thế kỷ 20 này. Giới trẻ
cũng đóng một vai trò quan trọng trong đó. Vai trò này bắt đầu từ trường
học, là nơi tạo cơ hội cho ta khám phá, đón nhận và yêu thương nhau.
Xin hãy nhớ: Mọi người đều là anh em tôi.
Tác giả: Jacques Lacourt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét