Bạo
lực có mặt khắp nơi trong thời đại chúng ta. Một trong các nguồn gốc
của bạo lực là hận thù. Qua phương tiện truyền hình, bạo lực ùa vào mọi
gia đình. Trong đa số phim ảnh, người bạo lực là người luôn gây ra chết
chóc. Bạo lực ảnh hưởng đến các quan hệ gia đình, xã hội, chính trị,
quốc tế: tạo hố ngăn cách giữa các thế hệ, tội phạm, bắt người làm con
tin, tra tấn, xô xát trong xã hội, khủng bố, dùng quân sự lấn chiếm lãnh
thổ, các thảm kịch xảy ra do tự vệ, các tội ác do phân biệt chủng tộc,
thêm vào đó còn có nạn phá thai và làm chết người cách êm ái nữa.
2. Bi kịch của chiến tranh
Chiến
tranh là cao điểm của bạo lực. Đã có thời gian, người ta đề cao chiến
tranh như một thành tựu ưu việt của nhân loại, một phương thế để lao tới
đài vinh quang và đoạt được những chiến thắng hấp dẫn. Chiến tranh được
xem như một phương tiện hợp pháp để dàn xếp các xung đột.
Kỳ
thực, chiến tranh vẫn luôn là nỗi bất hạnh lớn cho con người. Qua nhiều
thời đại, Giáo hội đã nhiều lần cố gắng ngăn chận chiến tranh hay ít
nữa làm giảm bớt sự khốc liệt của chiến tranh như hô hào đình chiến nhân
danh Chúa, lập đội kỵ sĩ. Rất nhiều Đức thánh cha đã can thiệp vào lịch
sử để tìm cách hoà giải các ông hoàng hoặc các dân tộc thù nghịch nhau.
3. Chiến tranh có hợp pháp không?
Giáo
hội cũng đã thử xây dựng một nền thần học về chiến tranh. Hẳn Giáo hội
đã sớm nhận ra rằng có những cuộc chiến được kể là chính đáng sau khi đã
tìm hết mọi cách để hoà giải mà không được, và phải tự vệ chống lại sự
tấn công bất chính của đối phương, đồng thời cũng có những cuộc chiến
bất chính. Quyền tự vệ chính đáng vốn có giá trị đối với các cá nhân
cũng phải được áp dụng đối với các quốc gia bị xâm lược một cách bất
chính, với điều kiện là chỉ được phép giao tranh trong giới hạn các đội
binh mà thôi, nghĩa là không được xâm phạm đến tính mạng của người dân –
là người vô tội, đàn bà, trẻ em, người già – và phải luôn luôn nuôi hy
vọng điều đình ổn thoả trong tương lai.
Nhưng
trong kỳ họp Công đồng Vatican II, trước một lượng vũ khí tân thời quá
nhiều và quá mạnh – gồm vũ khí nguyên tử, vũ khí vi trùng và vũ khí hoá
học – các quan niệm xưa kia về chiến tranh xem ra đã lỗi thời. Đức thánh
cha Gioan XXIII trong Thông điệp “Pacem in terris” và Công đồng đã phải
xác định lại học thuyết của Giáo hội về chiến tranh.
Ngày
nay, tầm vóc lớn lao và khủng khiếp của chiến tranh hiện đại – dù có sử
dụng hạt nhân hay không – khiến ta không thể chấp nhận lấy chiến tranh
làm giải pháp để dàn xếp các xung đột giữa các quốc gia. Thậm chí, Đức
Gioan Phaolô II còn phát biểu rằng chiến tranh là “một phương thế mọi rợ
nhất và vô hiệu nhất trong việc giải quyết các xung đột”. Một cuộc
thương thảo trong hoà bình là đường lối duy nhất xứng hợp với con
người.
Giáo
hội cũng lên án và xem các hành động nhằm tiêu diệt một dân tộc, một
quốc gia, hay một nhóm người thiểu số là những tội ác đáng kinh tởm.
“Mọi hành vi chiến tranh nhằm huỷ diệt không phân biệt hết các thành phố
hay các miền rộng lớn cùng với cư dân ở đó đều là một tội ác chống lại
Thiên Chúa và chống lại chính con người nữa.” (Công đồng Vatican II).
Tuy nhiên, Giáo hội không thể phủ nhận rằng các chính phủ có quyền tự vệ
một cách hợp pháp, chống lại sự xâm lược bất chính, bao lâu chưa có tổ
chức quốc tế thẩm quyền nào có đủ lực để thiết lập hoà bình trên thế
giới. Nhưng cho phép chiến đấu để tự vệ không có nghĩa là cũng cho phép
sử dụng các phương tiện có sức huỷ hoại tuyệt đối. Không ai được tiến
tới mức chiến tranh toàn diện, một điều bị lên án một cách tuyệt đối.
4. Giải trừ vũ khí hạt nhân
Giáo
hội Công giáo cho rằng không buộc phải huỷ bỏ vũ khí hạt nhân, ít nữa
là trong hoàn cảnh hiện nay. Thật ra theo lập trường của Giáo hội, có
khả năng phục thù một cách kinh khủng có thể được dùng để buộc kẻ thù
phải từ bỏ ý định tấn công, dù điều này có vẻ hơi nghịch lý. Giáo hội
đồng ý cho phép lấy vũ khí hạt nhân để ngăm đe, nhưng không đồng ý với
việc sử dụng nó. Người ta cho rằng sử dụng một hình thức ngăm đe tương
xứng để buộc kẻ xâm lược phải chùn chân và suy tính hơn thiệt trước khi
gây chiến cũng là một cách để phụng sự hoà bình.
Đây
không phải là một điều lý tưởng mà chỉ là một giải pháp tạm thời, một
trường hợp chẳng đặng đừng trong lúc chờ đợi một giải pháp khác tốt hơn.
Giải pháp tốt nhất là hạn chế vũ khí, nhất là vũ khí hạt nhân, dần dần,
đồng loạt, có chỉ đạo, và tiến tới chỗ tiết giảm toàn bộ vũ khí càng
sớm càng tốt.
Giáo
hội chống lại cơn lốc chạy đua vũ trang – một vết thương cho nhân loại.
Các chi tiêu vô ích về vũ trang đang làm cho người nghèo càng trở nên
nghèo hơn, dù đó chỉ là ngăn cản không đem chia sẻ các tài nguyên đã đổ
vào vũ khí. Giáo hội rất cương quyết về điểm này. Đức Phaolo VI đã từng
nói: “Mọi cuộc chạy đua vũ trang tốn kém đều thành một ‘xìcăngđan’ không
thể chịu đựng nổi.” Phải chính thức cấm sử dụng vũ khí nguyên tử vì nó
sẽ gây ra nhiều thiệt hại về nhân mạng. Ta có biết các lực lượng ở phía
Đông có đủ sức để huỷ diệt toàn thể trái đất một lần. Còn phương Tây thì
có đủ lực lượng để huỷ diệt trái đất ba lần…Chiến tranh thế giới lần
thứ hai đã gây tử vong cho 50 triệu người. Nguồn vũ khí dự trữ trên thế
giới hiện nay là 15 tấn chất nổ trên mỗi đầu người, trong lúc mỗi người
chỉ được 300 ký bánh mì hoặc gạo cho một năm!
5. Xây dựng hoà bình
Như
vậy, rõ ràng là ta phải cố gắng hết sức để tiến tới thời điểm mọi cuộc
chiến đều được các quốc gia nhất trí là tuyệt đối chấm dứt. Nếu muốn
sống còn, nhân loại ngày nay buộc phải xây dựng hoà bình.
Để
thực hiện được điều này, nhất thiết phải có – và Giáo hội luôn công
nhận như thế - một cơ quan quyền lực chung cho toàn thế giới, được mọi
người nhìn nhận có đủ sức mạnh hữu hiệu khả dĩ bảo đảm cho mọi người
được an ninh, công bằng và hưởng các quyền lợi.
Trong
số các nguyên nhân sâu xa nhất gây ra những cuộc chiến hiện nay, có một
lý do được đặt lên hàng đầu: đó là sự cách biệt giàu nghèo giữa các
quốc gia kỹ nghệ hiện đại với các nước thuộc Thế giới thứ ba. Bạn có
muốn là trong tương lai sẽ không còn chiến tranh nữa không? Nếu vậy,
phải chiến thắng nghèo đói.
Không
thể bảo đảm cho thế giới được hoà bình nếu giới giàu và giới nghèo trên
mặt đất này không liên đới với nhau. Những người giàu phải giúp cho
những người nghèo đấu tranh chống lại sự cùng quẫn về kinh tế. Làm như
thế tức là đã công nhận các quyền của con người. Như là Đức Phaolô VI
nói trong Tông huấn năm 1967: “Phát triển các dân tộc là tên gọi mới của
hoà bình” (“Populorum Progressio”).
Sự
hoà bình cũng khởi sự từ trong gia đình. Thật là vô ích nếu mơ tới một
thế giới hoà bình mà lại không có khả năng thiết lập hoà bình trong các
quan hệ gia đình và nghề nghiệp giữa vợ-chồng, cha mẹ-con cái, và chủ
nhân-công nhân. Sự hoà bình thường được tạo nên từ các bước nhỏ: cố nén
một lời cãi cọ độc địa, ngăn ngừa các thành kiến đối với một giai cấp xã
hội, với bạn bè, lối xóm, với người di trú, vui vẻ chịu đựng các thói
tật của những kẻ khác, tôn trọng sự lựa chọn tự do của họ, và không bao
giờ dùng các phương thế bạo lực. Phải tín nhiệm lẫn nhau và đoàn kết với
nhau thay vì thống trị và hiềm thù nhau. Hoà bình khởi sự từ tình yêu
và lòng kính trọng đối với người khác.
Tại
diễn đàn Liên hiệp quốc ở New York vào năm 1965, Đức Phaolô VI đã phát
biểu: “Phe này hãy thôi chống lại phe kia… Hãy thôi đừng gây chiến nữa…
Xin các bạn hãy buông vũ khí… Hoà bình sẽ không chỉ được xây dựng bằng
chính trị và thế quân bình giữa các lực lượng và các quyền lợi mà thôi
đâu. Hoà bình được kiến tạo là nhờ tinh thần, các quan niệm và các việc
làm xây dựng hoà bình.”
Tổng
thống Kennedy đã xác tín rằng cần phải đạt tới hoà bình: Nhân loại sẽ
phải chấm dứt chiến tranh, hoặc chính chiến tranh sẽ kết liễu nhân loại.
6. Theo cách của Đức Kitô
Giáo
hội không chỉ lên án chiến tranh, mà còn chẳng ngần ngại tìm tòi các
phương thế cụ thể khả dĩ huỷ bỏ chiến tranh. Qua việc làm này, Giáo hội
chứng tỏ mình đang trung thành với sứ mạng mà Đức Kitô đã trao phó:
Đức
Giêsu đã có thể yêu thương một cách sung mãn, vì con tim Người không hề
biết đến hận thù, cũng chẳng hề biết đến bạo lực. Sứ điệp của Người
luôn nói về tình yêu, công bằng, hoà giải, tha thứ. Người đã tuyên bố:
“Phúc cho những kẻ hiền lành”.
Đức
Giêsu không lấy sức mạnh của Thiên Chúa mà Người đang có để phục vụ
mình. Người không đè bẹp các đối thủ mình, nhưng luôn tôn trọng họ.
Người không có tinh thần báo thù. Người gạt phăng chước cám dỗ đòi thiết
lập Nước Chúa bằng những phương tiện bạo lực.
Tuy
nhiên, hiền lành không phải là yếu mềm nhu nhược, và Tin mừng không hề
bắt ta “giải giáp” khi đứng trước các bất công do tội lỗi của loài
người, do con người vì không yêu thương nhau mà đã gây ra. Cuộc đời của
Đức Giêsu là một cuộc đấu tranh vĩ đại chống lại các thế lưc, của sự dữ.
Nhưng đây là cuộc đấu tranh bất bạo động và chẳng có hận thù.
Nét
độc đáo của Kitô giáo là tha thứ những gì xúc phạm đến mình. Đó không
phải là hèn nhát cũng chẳng phải là ngây ngô, nhưng chính là một phương
thế để bẻ gãy cơn lốc bạo lực sẽ đẻ ra bạo động. Trong sứ điệp Kitô
giáo, chỉ có duy nhất một điều là yêu thương người lân cận một cách hữu
hiệu, kể cả đối thủ của mình: “Anh em hãy yêu thương kẻ thù, hãy làm ơn
cho kẻ ghét mình” (Lc 6,27).
Hoà
bình là một ân huệ của Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng là một nỗ lực
của con người. Đức Kitô đã nói: “Phúc cho những ai kiến tạo hoà bình”.
Đức Giêsu đã có thể trao ban đời mình một cách hoàn toàn tự nguyện vì
Người luôn tự do với mọi hờn oán, mọi hận thù, mọi ước muốn trả thù. Di
chúc thiêng liêng của Người là: “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ”.
Theo chân Đức Giêsu, Kitô hữu là một con người hoà bình.
7. Ta nghĩ thế nào về người chống đối vì lý do lương tâm?
Ta
phải tôn trọng quyết đinh trong lương tâm của một thanh niên từ chối
không thi hành nghĩa vụ quân sự trong thời hoà bình, vì anh chống lại
mọi sự sử dụng bạo lực và mọi việc ngăm đe bằng bạo lực giữa các dân
tộc. Ta cũng phải tôn trọng một người từ chối cầm súng trong trường hợp
có chiến tranh. Nhưng người chống đối vì lý do lương tâm như thế cũng
không được quyền kết án người chấp nhận cầm súng, bởi người này xét rằng
mình phải tự vệ khi bị tấn công một cách bất chính.
Thế
nhưng, giả như Nhà nước có phải bảo đảm về mặt pháp luật cho những
người không chịu thi hành nghĩa vụ quân sự vì lý do lương tâm, thì để bù
lại, Nhà nước có quyền đòi hỏi những người này thi hành nghĩa vụ xã hội
nào đó tương ứng.
8. Bất bạo động
Đức
Giêsu đã đem mạng sống mình trả giá cho hoà bình. Hoà bình không được
tạo lập bằng vũ khí. Tinh thần bất bạo động, được Tin mừng gợi hứng, là
một tác nhân chính của hoà bình.
Để
đáp lại bạo lực, người môn đệ của Đức Giêsu dùng sức mạnh của đức hiền
hoà theo Tin mừng. Hiền hoà không phải là thụ động, cũng chẳng phải là
dửng dưng hay đầu hàng trước uy lực của sự dữ. Đức hiền hoà được xây
dựng từ lòng kiên nhẫn, quảng đại, cố gắng thông cảm và đối thoại với
tha nhân. Vấn đề là dùng một bánh xe hoàn toàn khác để chận đứng các
bánh xe bạo lực đang không ngớt quay cuồng: đấy chính là bánh xe của
tình thương cụ thể và sáng tạo. Đấy chính là điều mà thánh Gandhi vĩ
đại, và sau đó là các vị khác như Martin Luther King, Helder Camara,
Lech Walesa đã hiểu ra.
Nói
như thế phải chăng là ta không nên tự vệ khi bị người lân cận tấn công
một cách bất chính? Thưa không phải thế, tình yêu đối với tha nhân đòi
ta phải tự vệ, nhưng là tự vệ với những phương thế bất bạo động kéo dài
bao lâu còn thấy đủ hiệu lực. Như vậy, ta phải nhìn đối phương không
phải như trong thực trạng hiện nay của họ, nhưng như trong viễn tượng mà
ngày mai họ có thể trở thành. Nếu ta dùng những phương thế như họ -
cũng dối trá, lọc lừa, bạo lực, sức mạnh – là ta đã tước mất khỏi họ mọi
khả năng giúp họ đổi đời. Phải tin vào tình yêu và khả năng của ơn Chúa
đang tác đông trong lòng con người.
Trên
bình diện các quốc gia, tất cả điều gì đóng góp vào việc duy trì và
thiết lập đối thoại giữa các bên trong thế giới đều đã là những hành vi
bất bạo động, ngay cả khi hai bên vẫn còn giữ nguyên quân đội và ngay cả
khi trong một thế giới như thế giới ngày nay, phải duy trì quyền tự vệ
hợp pháp của cá nhân và tập thể. Việc giải trừ vũ khí về mặt vật chất
chỉ có thể là hậu quả của việc giải trừ vũ khí trong tinh thần. Dù sao,
cũng phải lưu tâm ghi nhận phần chân lý trong các yêu sách do các phong
trào bất bạo động đương thời đưa ra.
Sau
đây là một thí dụ về hành vi bất bạo động: Trong chiến tranh, trong một
trại tù… Mỗi một buổi chiều, viên cai ngục người Đức tìm lý do này hay
lý do nọ để tóm lấy một tù nhân. Hắn đánh đập người tù cho đến khi thần
kinh hắn dịu lại. Nêu chọn giải pháp trừ khử tên cai tù hay nên chịu
đựng hắn với lòng hận thù?
Một
ngày nọ, tên cai ngục bỗng trở nên dữ dằn hơn thường lệ. Một tù nhân đã
quyết định yêu thương tên cai ngục một cách thật lòng và quyết định
đánh thức lương tâm y dậy. Người tù đến gặp y và điềm tĩnh nói với y
rằng: “Vì chiều nào anh cũng đánh đập một người trong chúng tôi, nên
chiều nay tôi xin anh hãy đánh tôi và tha cho các bạn khác.”
Quá sững sờ, tay cai ngục chần chừ, sau đó hắn tuyên bố: “Tốt lắm, mày muốn ăn bao nhiêu đòn thì hãy chọn đi.”
“Không”, người tù đáp lại, “Tôi để việc đó cho lương tâm của anh”.
Bấy
giờ tên cai ngục gầm lên: ”Tao chẳng có lương tâm lương tiếc gì hết,
tao là một tên súc sinh mà.” Người tù nói thêm: “Có chứ, anh có lương
tâm đấy. Hơn nữa, anh là người anh em của tôi và tôi yêu thương anh.”
Rồi anh ta thảng thốt bước ra. Tay canh tù còn bối rối gấp bội. Buổi
chiều, khi các tù nhân về trại, tay cai ngục chẳng đánh đập người nào.
Hiển
nhiên là giải pháp bất bạo động này đòi ta phải can đảm, có ý chí, bỏ
mình và hết lòng tin tưởng vào Chúa và vào con người.
9. Chủ trương khủng bố
Chủ
trương khủng bố tìm cách phá hoại hoặc huỷ diệt con người và tổ chức xã
hội bằng những hành vi mang nặng tính bạo động như: xâm phạm các giá
trị nhân bản đã được luật lệ bảo đảm, cũng như xâm phạm nhân phẩm và
mạng sống con người.
Điều gì đã khiến cho chủ trương khủng bố ngày nay có thêm sức mạnh?
Trước
tiên, các tay khủng bố có sẵn những vũ khí đáng sợ mà họ có thể tự
trang bị một cách rất dễ dàng. Họ cũng lợi dụng những điều mà các phương
tiện truyền thông đại chúng nói về họ như một thứ vũ khí tâm lý rất hữu
hiệu.
Tại sao người ta nại đến phương thế đáng nguyền rủa này?
Trong
mỗi người đều có những xung lực bạo động ngủ yên bên cạnh các xung lực
yêu thương. Ý thức về một sự bất công cũng là một trong các nguyên nhân
gây ra hiện tượng này. Các ý thức hệ về bạo lực và về đấu tranh thù hận
càng lan rộng càng làm cho lương tâm của nhiều người trở nên đen tối
hơn. Một số người không hề được dạy cho biết phân biệt thiện ác. Vậy thì
tại sao không cứ thẳng tay chém giết? Sau hết, còn có sự đồng loã của
cả một mạng lưới khủng bố quốc tế đang dựa dẫm vào một thứ quyền lực nào
đó.
Phải chăng có nhiều hình thức khủng bố khác nhau?
Đúng
thế, một số người khủng bố để đòi hỏi công bằng cho một lý do mà họ đã
từng lên tiếng kêu gọi một cách ôn hoà mà không có kết quả. Một số khác
nhắc lại quyền lợi của những dân tộc đã bị xâm phạm nặng nề. Những người
này thường nhắm vào những nhân vật hoặc những tổ chức đại diện ở nước
ngoài. Chủ trương khủng bố của Thế giới thứ ba là tiếng kêu gào điên dại
của những người bị bỏ rơi. Sau cùng, có một số người muốn tạo ra tình
trạng hoảng sợ để phá đổ các nền móng của một xã hội mà họ cho là bất
công.
Có thể biện minh cho chủ trương khủng bố không?
Cứu
cánh không biện minh cho các phương tiện. Chủ trương khủng bố chẳng hề
được biện minh trong một xã hội dân sự. Đó là một hình thức quay trở lại
với tình trạng mọi rợ. Khủng bố luôn luôn là một cách biểu lộ lòng thù
hận, nhằm gieo rắc sự bất ổn, sự xáo trộn trong đời sống quốc gia và
quốc tế. Khủng bố là xâm phạm đến lợi ích của tha nhân và nhất là – điều
này thì không thể chống chế được – dùng các hình thức bắt cóc hay giết
hại hầu đánh vào tự do và tính mạng của những người vô tội không hề tự
vệ và cũng chẳng có liên can gì với nguyên nhân gây hấn, hay của những
người biểu tượng cho cái quyền lực bị chống đối kia.
Ta
phải làm gì để chống lại nạn khủng bố? Ta chẳng thể than vãn xuông, mà
còn phải phản ứng lại một cách hữu hiệu, loại trừ đi sự thách thức ấy.
Trên
cấp độ quốc tế, các nước phải đoàn kết với nhau trong việc tố giác, kết
án và chế tài chủ trương khủng bố! Quốc gia nào cũng đều có bổn phận
tìm kiếm các phương thế để chống lại nạn khủng bố.
Trên
cấp độ của từng xã hội, cần đưa ra những biện pháp thích ưng sau khi đã
phân tích rõ ràng các nguyên nhân gây ra nạn khủng bố, bảo vệ mạng sống
và quyền lợi của những cá nhân vô tội, để nhờ đó vô hiệu hoá các tay
khủng bố.
Trên
cấp độ dư luận, đặc biệt đối với các nhà giáo dục, các giáo viên, các
nhà báo, cần tạo ra một bầu khí sao cho người ta thôi không nuôi hận
thù, không trình bày bạo lực như một yếu tố tích cực để xây dựng một xã
hội nhân bản hơn.
Tóm
lại, giải pháp tốt nhất cho vấn đề bạo động chính trị là phải xây dựng ở
mọi thời và mọi nơi một kiểu mẫu xã hội trong đó các luật lệ phải thật
đúng đắn, chính phủ nỗ lực tối đa để thoả mãn các nhu cầu hợp pháp của
dân chúng và người công dân có thể chung sống trong an ninh và hoà bình,
cùng nhau xây dựng tương lai cho mình và cho đồng bào.
Công bằng là giải pháp xoá bỏ nạn khủng bố.
Tác giả: Jacques Lacourt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét