Thứ Hai, 3 tháng 6, 2013

CÁC TÔN GIÁO LỚN DẠY TA ĐIỀU GÌ?

Ở đây chúng ta sẽ chỉ nói đến 4 tôn giáo chính ngoài Kitô giáo là Ấn độ giáo, Phật giáo, Hồi giáo và Do thái giáo.
1. Ấn giáo
Đại đa số dân Ấn độ theo một tôn giáo gọi là Ấn giáo. Ấn độ là một thế giới mênh mông và đa dạng, huyền bí và thật khó hiểu, nhưng cũng rất hấp dẫn, có một lịch sử lâu dài, là một vùng đất với nhiều sự tương phản mãnh liệt, Có cả thảy 680 triệu tín đồ Ấn giáo. Các bậc thầy về mặt tinh thần, tức là những “gourou” của các tôn giáo Đông phương, đã lôi kéo nhiều người trẻ tại Châu Âu. Ở Pháp, tín đồ đạo Krishna nhảy múa ngoài đường theo tiếng trống con và tiếng lục huyền cầm.


+ Kinh điển của Ấn giáo
Ấn giáo có các sách thánh của riêng mình. Thuộc vào số sách cổ xưa nhất, có một sưu tập các bản văn mà các tín đồ Ấn giáo gọi là “tri thức tuyệt hảo”, tức là kinh Veda (Phệ đà) được viết bằng tiếng Phạn. Có những bài chú giải đi kèm theo các bản văn này, trong số đó có các kinh Upanishads (Huyền bí thư) hay là các “suy tư triết học”.
Ngoài ra, phải kể đến kinh Bhagavad-Gitâ, tức “Chí tôn ca”, là tác phẩm nổi tiếng nhất của văn chương Ấn độ, bộc lộ linh hồn của đất Ấn, là sách gối đầu giường của Gandhi, đã được xác định là viết vào giữa thế kỷ 2 – thế kỷ 1 trước Công nguyên.
+ Thần minh của Ấn độ
Phải chăng các tín đồ Ấn giáo tin vào nhiều vị thần khác nhau? Xin thưa là không. Nhưng họ đưa ra nhiều quan điểm về Thượng đế. Họ cho rằng Thượng đế tỏ mình ra cho ta dưới nhiều dấu chỉ khác nhau.
Trong Ấn giáo, có một dạng Thượng đế ba ngôi nào đó. Đó là Brahma sáng tạo, Vishnou khôi phục, và Civa huỷ diệt. Vishnou thuờng được vẽ đang ngủ, nằm dài trên lưng một con rắn có 1.000 cái đầu. Để khôi phục trật tự thế giới, thần Vishnou can thiệp vào trái đất dưới những hình thức được gọi là “hoá thân”, tức là những “cuộc hạ thế” hay nhập thể dươi hình dạng mộty con vật hay một con người. Quan trọng nhất là các cuộc hoá thân làm người dươi dạng Rama và Krishna. Có nhiều đền thờ được dâng hiến hoặc cho Civa hay cho Vishnou. Ngoài ra cũng còn có hằng trăm thần và bán thần khác nữa.
+ Giáo lý
Một tín đồ Ấn giáo được tự do quyết định thực tại tối thượng là một tinh thần vô ngã, tức là Brahman (trung tính), hay là một vị thần có ngã vị, tức là Brahma (nam tính). Họ xem thế giới hữu hình là “maya”, tức là ảo ảnh. Linh hồn con người được gọi là “atman”. Nó phải tùng phục Karman (hay Nghiệp quả), một từ có nghĩa là Hành động, gồm cả công trạng lẫn thành tích bất hảo mà cá nhân đã làm khi còn sống.
Linh hồn được thanh luyện qua một vòng luân hồi hoá kiếp. Kẻ ăn trộm lúa biến thành chuột, người dữ tợn hoá thành cọp… Việc các linh hồn lưu chuyển như thế được gọi là Samsâra, tức là “sự luân hồi của vũ trụ”. Để tránh “các khổ dịch muôn kiếp”, cần phải chu toàn bổn phân, tức là “dharma”. Trong số đó, có bổn phận tôn trọng luật giai cấp – các thầy Bramanes (Bà la môn) là giai cấp cao nhất - và thực hành việc đạo đức như hành hương đến Bénarès, chay tịnh, khổ chế, ăn ngay ở lành, khiết tịnh, tự chủ, từ bỏ, bất bạo động như Gandhi hằng chủ trương .
Bấy giờ sẽ đạt tới “nirvana” (niết bàn), là  “sự tiêu dục”, đó là lúc linh hồn gặp được Brahman, được tan biến trong tất cả. Yoga, có nghĩa là “hiệp nhất, liên kết” được người Tây phương coi như một hình thức thể dục, nhưng được các tín đồ Ấn giáo xem là phương thế để đi vào đời sống huyền nghiệm. Trong tôn giáo này cũng có vô số giáo phái và niềm tin khác nhau.
Ấn giáo mang lại cho chúng ta điều gì? Các tín đồ của đạo này là những người “sống nội tâm”. Họ nghĩ rằng người Tây phương sống quá hời hợt. Ấn giáo dạy các Kitô hữu biết tìm kiếm các lợi ích khác ngoài lợi ích vật chất; hướng đến sự an tĩnh của linh hồn bằng cách sống từ bỏ; dành ưu tiên cho việc làm giàu đời sống tâm linh nhằm thể hiện cái linh thánh nơi mình và lấy việc truy tầm chân lý vĩnh cửu làm lẽ sống cho cuộc đời.
Nhưng mặt khác, theo chúng ta, hệ thống luân hồi của Ấn giáo là một quan niệm thật bi quan, các nghi lễ tầm thường và mê tín nhất đôi khi được đặt ngang hàng với các nghi lễ thuần khiết và thiêng liêng nhất.
2. Phật giáo
Đây là một tôn giáo bắt nguồn từ Ấn giáo, được cải cách lại do một hoàng tử tên là Gaurama, tự là Bouddha (Phật đà). Tôn giáo này có mặt nhiều nhất tại Châu Á. Tuy được khai sinh tại Ấn độ, nhưng thực tế mà nói đạo Phật không phát triển ở đó. Có 310 triệu Phật tử, trong số đó tại Pháp 500.000 người.
+ Cuộc đời của Đức Phật
Thật khó phân biệt trong đời ngài điều gì có thật trong lịch sử và điều gì chỉ là huyền thoại. Siddharta Gautama sinh ra trong một gia đình khá giả ở vùng biên giới Nepal. Ngài có đầy đủ mọi sự để sống hạnh phúc. Một ngày kia, ngài gặp một cụ già lọm khọm, lần khác một người mắc bệnh dịch, lần nữa một xác chết. Già lão, đau khổ, chết chóc: đó là 3 điều mạc khải về số phận chung của loài người. Nhờ lần gặp gỡ thứ 4 với một tu sĩ hành khất mà ngài tìm ra được phương thuốc chữa trị 3 căn bệnh trên.
Ngài từ bỏ lâu đài và vợ con để sống cuộc đời khổ. Thế nhưng ngài vẩn chưa hài lòng về những điều khổ hạnh mình đã thực hiện được. Sáu năm sau, khi dừng lại dưới gốc một cây bồ đề, ngài mới hiểu rằng giờ khám phá ra bí mật của sự đau khổ trong vũ trụ đã đến. Lúc ấy ngài quả là đã được giác ngộ hoàn toàn: biết được các nguyên nhân gây ra đau khổ và các phương thuốc chữa trị nỗi khổ của nhân loại. Gautama trở thành Bouddha, nghĩa là “người được soi sáng, được giác ngộ”. Ngài đã thoát được vòng luân hồi.
Ngài đã có thể vào cõi niết bàn. Nhưng vì lòng từ bi, ngài quyết định ở lại dương thế để thuyết pháp về đạo cho chúng sinh. Trước tiên ngài giảng dạy ở gần thánh đô của Ấn độ: đó chính là “bài thuyết pháp tại Bénarès” rất thời danh. Sau 45 năm rong ruổi, ngài viên tịch khi đã 80 tuổi, mệt mỏi và hạnh phúc; ngài nằm nghiêng bên phải và đi vào cõi niết bàn. Xác ngài được hỏa thiêu và di cốt được tôn kính trong những ngôi đền gọi là “stupas”.
+ Giáo lý của Đức Phật
Đức Phật không viết gì cả, nhưng những lời thuyết pháp của ngài, được truyền thống truyền khẩu thành kính giữ gìn, đã được chép lại và chú giải sau đó. Trong giáo thuyết của ngài ta không thấy có ý tưởng về một vị thần có ngã vị. Phật giáo là một tôn giáo không có Thượng đế, mà là một nền minh triết, một quan niệm triết lý.
Khám phá quan trọng của Đức Phật hệ tại ở điều này: cuộc đời là một bể khổ; có đau khổ là vì có ước muốn, muốn được hiện hữu, muốn được thay đổi liên tục, muốn nếm cảm và hiểu biết mọi sự. Muốn hết khổ thì phải dập tắt khát  vọng, phải diệt dục. Còn thần thánh có hiện hữu hay linh hồn có bất tử không, điều đó chẳng ích lợi gì. Muốn tìm câu trả lời cho câu hỏi đó là vẫn còn muốn biết tất cả; và vì thế tiếp tục bất an và đau khổ.
Nếu muốn thoát khỏi bánh xe “luân hồi” liên tục trong những kiếp khác, là cây cối hay là thú vật, ta phải sống hết sức hoà hợp với thiên nhiên; giữ tâm hồn hoàn toàn thư thái trong mọi hoàn cảnh; sống trung dung giữa khổ hạnh và thế tục; không tà dâm loạn dục; yêu mến sự thật, tự trọng, sống khiết tịnh, khiêm nhượng, hảo tâm, từ bi, khổ hạnh, vui vẻ chấp nhận đau khổ và mọi điều trái ý. Để làm việc này, phải tin tưởng vào bản thân mình chứ đừng cậy dựa vào thần thánh.
Khi đến cuối đường tinh luyện này, ta sẽ đạt tới tình trạng hiểu biết trọn vẹn, là sự Giải thoát, là Niết bàn, có nghĩa là ”tịch diệt, không hiện hữu”, là được giải thoát khỏi các kiếp luân hồi.
+ Ba con đường chính
Phật giáo chia làm tam thừa hay 3 cỗ xe. “Tiểu thừa” là nhánh Phật giáo chính gốc, ở Sri Lanka, Mianma, Thái lan, Cam bốt. “Đại thừa” là nhánh phát triển rộng hơn hết, ở Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên. Đạo Thiền của Phật giáo rất được phổ biến ở Nhật. Cuối cùng là “Phù chú thừa”, ở Tây Tạng và Mông Cổ.
+ Phật giáo mang lại cho ta điều gì?
Phật giáo nhìn nhận thế giới biến dịch này là bất toàn. Đạo Phật đã giúp nuôi dường đời sống tâm linh của rất nhiều bậc khổ tu và hiền triết đi tìm sự giải thoát trọn vẹn. Đạo Phật hô hào sống hoà bình, tôn trọng sự sông, sống lân mẫn, dịu dàng, bác ái.
Tuy nhiên nỗ lực cao quý để sống thanh khiết và thư thái hơn ấy đã bị cắt ngang khi kết thúc trong cõi niết bàn không có Thượng đế.
3. Hồi giáo
Hồi giáo là tôn giáo của những người Hồi, là những người tuân phục Thiên Chúa, tuân phục Lời Chúa và thánh ý Ngài. Chữ “islam” – từ đó sinh ra chữ Hồi giáo – có nghĩa là : tuân phục, vâng lời, phó mình cho Chúa.
Hiện nay có khoảng 870 triệu tín đồ Hồi giáo, kể cả những người ngoài khối Ả rập. Hồi giáo là tôn giáo lớn thứ nhì tại Pháp với khoảng 3 triệu tín đồ.
+ Cuộc đời của Đức Mahomet
Ngài sinh năm 570 tại La Mecque, Ả rập. Mồ côi từ bé  và được chú nuôi dạy. Lớn lên ngài giúp việc cho một người họ hàng giàu có, chuyên hướng dẫn đoàn đi buôn, rồi sau đó cưới  lấy bà. Trong lúc đi đây đó, chắc ngài đã nghe nói đến Ápraham, luật Môsê, cũng như Tin mừng do Đức Giêsu rao giảng.
Vào năm 40 tuổi, khi ở một mình trong hang động, ngài đã nhận được mạc khải đầu tiên, làm ngài bàng hoàng kinh động. Ngài cho rằng mình đã thấy thiên thần Gáprien, và thiên thần ra lệnh cho ngài đi giảng đạo. Ngài ý thức rằng cuốn sách đã được ban xuống trong tâm hồn mình. Mahomet trở thành “Ngôn sứ” và cảm thấy mình được kêu gọi đi giảng đạo cho La Mecque, thánh đô của Ả rập, lúc đó đầy dẫy các ngẫu tượng, về tính duy nhất của Thiên Chúa.
Tại La Mecque, ngài đã bị bách hại. Ngài bỏ trốn đến ốc đảo Yathrib ở miền bắc. Cuộc đào tẩu này mở ra một kỷ nguyên Hồi giáo, khởi đầu ngày 16.7 năm 622. Sau này, Yathrib trở thành Médine, “Kinh thành của đức Ngôn sứ”.
Tại đây ngài suy tư, minh định giáo lý, và quyết định dùng thánh chiến để ép người ta phải theo đạo. Năm 630, ngài chiếm thành La Mecque và đập đổ hết mọi ngẫu tượng, đồng thời áp đặt nền tôn giáo mới. Ngài qua đời ngày 8.6 năm 632 sau khi đã quy tụ các bộ tộc Ả rập thù nghịch lại với nhau, bằng cách kết hợp họ lại trong một đức tin vào Thiên Chúa độc nhất của Ápraham.

+ Giáo lý của đạo Hồi
Giáo lý này được chứa đựng trong kinh Coran, gồm các mạc khải mà đức Mahomet đã nhận được tại La Mecque và Médine. Kinh được viết bằng tiếng Ả rập, gồm 114 phần được chia thành 6.000 tiết. Là sách “được linh hứng” và phải hiểu theo sát nghĩa. Chính bản thân Mahomet chẳng viết gì. Về sau, kinh Coran được bổ túc thêm bằng cuốn Sunna, ghi chép các việc làm Mahomet, và các sách Hadith, gom góp các truyền thống.
Đức Allah là Thiên Chúa độc nhất và Mahomet là ngôn sứ của Người. Các biến cố trên thế giới chỉ xảy ra được là do Người muốn. Các tín đồ Hồi giáo phải tuân phục thánh ý Chúa. Khi lần hạt họ ưa nêu lên 99 thánh danh đẹp nhất của Thiên Chúa như Đấng hành thiện, Đấng thương xót…
Thiên Chúa đã nói với loài người qua những con người, là các ngôn sứ, trong số đó có Ápraham, Môsê, và Giêsu, con của trinh nữ Maria. Đức Giêsu không được coi là Con Thiên Chúa. Đức Mahomet là vị ngôn sứ cuối cùng: ngài cũng không phải là Chúa.
Để ban thưởng cho sự phục tùng của các tín đồ, sau khi chết họ sẽ được hưởng một cuộc sống vĩnh cửu đầy khoái lạc, bên cạnh các thánh nữ đồng trinh, trong các ốc đảo mát mẻ. Còn kẻ dữ sẽ vào hoả ngục.
+ Các việc thực hành của Hồi giáo
Hồi giáo có 5 việc bắt buộc phải làm, gọi là “năm cột trụ”.
1. Tuyên xưng đức tin. “Chỉ có một Chúa duy nhất là Đức Allah và Mahomet là Ngôn sứ của Người”.
2. Cầu nguyện. Tín đồ Hồi giáo phải cầu nguyện một ngày 5 lần bằng cách để trán chạm đất. Tại các thành phố, tiếng của tu sĩ lo việc báo giờ cầu nguyện sẽ vang lên từ các tháp cao của giáo đường, kêu gọi các tín hữu đến cầu nguyện.
3. Kỳ chay Ramadan: trong suốt 1 tháng, từ khi mặt trời mọc cho đến lúc mặt trời lặn, tín đồ phải kiêng ăn, uống và hút thuốc.
4. Bố thí theo luật định.
5. Hành hương đến La Mecque, một lần trong đời, nếu có thể được.
Còn các điều khác đều được phép làm. Hồi giáo không lên án tục đa thê. Mahomet đã có rất nhiều thê thiếp. Cuộc thánh chiến tuyệt vời nhất phải là cuộc chiến đấu chống lại các đam mê và các bản năng xấu xa của mình.
+ Các giáo phái
Hồi giáo có 2 nhánh không đều nhau do sự bất đồng ý kiến về việc kế vị đức Ngôn sứ. Nhánh Sunnites hay là nhánh theo truyền thống chiếm 90% tín đồ, nhánh Chiites ở Iran hay là nhánh chủ trương chính tông, chiếm 10% tín đồ: nhóm này chỉ công nhận quyền hành của những người thuộc dòng họ Mahomet và trông đợi một đấng Mêsia sẽ đến tái lập sự công bình.
+ Hồi giáo mang lại cho chúng ta điều gì?
Hội thánh trân trọng các tín đồ Hồi giáo vì đã ý thức chỉ tôn thờ một Thiên Chúa độc nhất, toàn năng và nhân từ; và luôn tìm cách vâng theo thánh ý Người. Họ tôn kính Đức Giêsu như một vị ngôn sứ và mẹ Người là Đức Trinh Nữ Maria. Trong tháng Ramadan, họ sống đời sống tôn giáo thật gắt gao. Họ rất hiếu khách, quảng đại và công bình.
Tuy nhiên các Kitô hữu tiếc rằng Hồi giáo theo thuyết định mệnh, nhắm đến một thiên đàng nhục cảm, muốn dùng thánh chiến như một phương thế đấu tranh chính trị và truyền đạo nhân danh Đức Allah.
Về phần Đức thánh cha, kể từ sau Công đồng Vatican II, ngài không ngớt cổ võ việc đối thoại sâu xa giữa Hồi giáo và Kitô giáo. Tín đồ của cả 2 bên phải cố gắng thông cảm lẫn nhau, đồng thời cùng nhau gìn giữ và thăng tiến sự công bằng xã hội, các giá trị luân lý, nền hoà bình và sự tự do cho hết mọi người.
4. Do thái giáo
Hiện nay trên toàn thế giới có khoảng 20 triệu tín hữu, riêng ở Pháp có 650.000 người theo Do thái giáo. Đức tin này đã được dân Do thái, một dân tộc nhỏ bé ở Trung đông, dần dần xác định rõ hơn trong khoảng gần mười ba thế kỷ.
+ Tóm tắt lịch sử dân Israen
Định mệnh của dân Israen là một định mệnh có tính cách tôn giáo. Thiên Chúa đã mở đường cho định mệnh này.
Chính Thiên Chúa đã lập nên dân tộc Do thái. Người chọn ông Ápraham vào năm 1850 trước thời Đức Giêsu Kitô, Người đòi ông rời xứ Ua ở Canđê và chỉ được tin vào một mình Người thôi (độc thần). Từ Ápraham, Người lập nên một dân tộc gồm vô số các miêu duệ: Israen là người con mà ông không hề hy vọng nhưng đã được hứa ban. Thiên Chúa của dân Do thái chính là Thiên Chúa của Ápraham, Ixaác và của Giacóp.
Chính Thiên Chúa đã ban cho dân Người một Hiến pháp. Người chọn Môsê vào năm 1250 trước thời Đức Giêsu Kitô. Sau những cuộc phiêu lưu của ông Giuse, dân Do thái đã định cư ở Ai cập. Khi dân bị ngược đãi, ông Môsê đã đưa họ ra khỏi Ai cập. Đó là cuộc xuất hành. Sau khi vượt qua Biển đỏ, một giao kèo đã được ký kết tại núi Xinai. Lời Giao ước đầu tiên này đúng là một khế ước nói lên sự lệ thuộc vào Thiên Chúa của họ. Đức Giavê – là một danh xưng khác của Thiên Chúa trong Thánh kinh – nhắc lại lời mình đã hứa với Ápraham; đổi lại, dân Do thái hứa tuân phục Người: họ sẽ tuân giữ 10 lệnh truyền được khắc trên bia luật. Đám đông hỗn tạp trong cuộc xuất hành đã được tổ chức thành 12 chi tộc Israen.
Chính Thiên Chúa ban cho dân Do thái một lãnh thổ. Sau 40 năm lưu lạc trong sa mạc, ông Giosuê tiến vào  vùng đất hứa tại Giêrikhô. Dưới sự hướng dẫn của các thủ lãnh, là các Thẩm phán – như Samson, v.v… - dân Israen đã phải chinh phục và bình định xứ Canaan. Các vua đã hoàn thành công cuộc này. Vào năm 1.000 trước thời Đức Giêsu Kitô, một vị vua vĩ đại là Đavít tiến chiếm Giêrusalem và lập kinh đô tại đó. Con của ông là Salômon đã xây đền thờ tại Giêrusalem, niềm tự hào của người Do thái.
Sau khi Salômon băng hà, xảy ra một cuộc phân ly vào năm 931 trước thời Đức Giêsu Kitô, lần lượt cả 2 vương quốc phía bắc lẫn phía nam bị xâm lăng và dân chúng bị lưu đày. Thế nhưng về phần Thiên Chúa, Người vẫn luôn trung thành. Người làm dấy lên những người của Chúa, là các ngôn sứ, có nhiệm vụ nhắc lại các yêu sách của giao ước. Trước thời lưu đày ở Babilon, có các ngôn sứ Isaia và Giêrêmia; trog thời lưu đày, có Êdêkien. Họ bảo tồn và tinh lọc lý tưởng tôn giáo; họ lập thành một nhóm người ưu tuyển về mặt thiêng liêng sẵn sàng đón tiếp Đấng Mêsia.
Vào năm 538 trước Đức Giêsu Kitô, khi từ xứ lưu đày trở về, dân Do thái đã liên tục bị người Ba tư, người Hy lạp và sau cùng, người Rôma đô hộ, vào năm 65 trước Đức Giêsu Kitô. Chính trong thời gian bị người Rôma đô hộ mà một ngày kia, vào khoảng năm 6 trước Công nguyên, một người xứ Nadarét tên là Giêsu đã ra đời, chính Người sẽ làm đảo lộn thế giới.
Kinh thánh của người Do thái – tức là  Cựu ước gồm 24 cuốn sách (1) – được các tác giả viết ra trong suốt lịch sử của Israen, nhắc lại sự hiện diện tích cực của Thiên Chúa độc nhất trong vũ trụ và trong lịch sử. Đây là cuốn sách căn bản của người Do thái. Qua các sự tích, các nghĩa cử anh hùng, các châm ngôn khôn ngoan, các ẩn dụ, các kinh nguyện hay các dụ ngôn, sách này trình bày các vấn đề chính yếu của cuộc sống và sự chết, của sự thiện và sự dữ, của nghi nan và hy vọng, của đau khổ và cứu độ.
+ Do thái giáo trong hiện tại
Đạo Do thái vẫn giữ nguyên như thời trước Đức Kitô. Họ tin vào một Thiên Chúa độc nhất, thưởng phạt ở đời sau. Họ tuân theo 10 điều răn đã được Chúa ban trên núi Xinai; và tuân theo lề luật. Họ trông đợi Đấng Mêsia. Họ mừng lễ Vượt qua với thịt chiên và bánh không men để kỷ niệm ngày được giải thoát khỏi Ai cập. Họ nghỉ ngơi và mừng ngày Sabát tại hội đường có chứa sách Torah – là sách luật Môsê và Ngũ thư, tức là 5 cuốn đầu tiên của bộ Thánh kinh, ghi chép luật ấy. Yom Kippour là ngày đại xá. Họ cầu nguyện với nhau trong gia đình vào các dịp kỷ niệm những biến cố lớn trong cuộc đời như cắt bì, cưới hỏi hay tang chế.
+ Do thái giáo mang lại cho ta điều gì?
Hội thánh Công giáo nhìn nhận rằng người Do thái là anh của chúng ta trong đức tin. Kitô giáo đâm rễ sâu trong đạo Do thái, và các Kitô hữu không việc gì mà chối bỏ các bậc tiền bối của mình. Chính từ nơi Do thái giáo mà Kitô giáo có được bộ sách Cựu ước, là các Lời Chúa hứa. Chính Đức Kitô cũng đã được sinh ra do một phụ nữ Do thái là Đức Trinh Nữ Maria. Các Tông đồ, là nền móng  và là rường cột của Hội thánh, cùng với một số đông môn đệ loan Tin mừng của Đức Giêsu cho thế giới, đều xuất thân từ dân Do thái. Thánh Phaolô luôn hãnh diện vì được thuộc về nòi giống này.
Không được bắt toàn thể người Do thái phải chịu trách nhiệm về cái chết của Đức Giêsu. Chính vì tội lỗi của mọi người mà Đức Giêsu đã chịu khổ nạn và chịu chết trên thập giá.
Đại đa số người Do thái không chấp nhận sách Tin mừng, không nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia. Tuy vậy, Chúa vẩn rất yêu thương họ và không ngừng ban ơn cũng như không ngừng kêu gọi họ, như Công đồng đã nói.
Hội thánh luôn phản đối các sự ngược đãi mà người Do thái phải gánh chịu trong suốt lịch sử, dù do bất kỳ ai gây ra.
Cả người Kitô hữu lẫn người Do thái đều được kêu gọi hãy vượt qua sự nghi kỵ để tìm gặp nhau và nhìn ra những kho tàng chung. Đó chính là ý nghĩa cuộc thăm viếng lịch sử của Đức thánh cha Gioan Phaolô II tại hội đường Rôma ngày 13.4.1986, tại đó ngài đã tuyên bố với cộng đồng Do thái giáo rằng: “Các bạn là những người anh em mà chúng tôi quý mến nhất” (Doc. Cath., số 1917).
5. Phải chăng mọi tôn giáo đều có giá trị ngang nhau?
Thời nào con người cũng chờ đợi các tôn giáo đưa ra câu trả lời cho những bí ẩn của thân phận làm người; những bí ẩn mà ngày xưa cũng như nay luôn làm tâm hồn con người phải dao động xao xuyến: Con người là gì? Đâu là ý nghĩa và mục đích của cuộc đời? Tại sao có đau khổ? Phải chăng sau khi chết còn có một đời sống khác? Mỗi tôn giáo đều cố gắng trả lời các câu hỏi căn bản này.
Trong số các suy nghĩ mà ta nghe được ở trường, có một suy nghĩ rất phổ biến là: Mọi tôn giáo đều có giá trị ngang nhau! Chân thành không phải là điều quan trọng hơn sao?
Hẳn nhiên chân thành là điều rất quan trọng trước mặt Chúa vì Người sẽ xét xử mỗi người theo lương tâm của họ. Thế nhưng, ta có thể chân thành mà vẫn sai lầm: chỉ cần ta không được thông tin đầy đủ hay được thông tin sai chẳng hạn. Mỗi người đều có bổn phận phải làm cho lương tâm của mình thấy rõ vấn đề.
Hội thánh Công giáo cũng nhìn nhận những giá trị thật của các tôn giáo ngoài Kitô giáo. Trên đây chúng ta đã nêu lên một vài giá trị.
Thế nhưng, giữa các tôn giáo cũng có những điểm bất đồng. Đang khi đó, chân lý chỉ có một. Thiên Chúa có phải là một năng lực trải rộng khắp vũ trụ (Brahman), là một Ai đó (Allah, Giavê), là một số đông (phiếm thần của người Hy lạp và Rôma), là đơn độc, hay là tình yêu (Ba Ngôi)? Nơi Thiên Chúa không thể có mâu thuẫn.
Tôn giáo tuyệt hảo nhất là tôn giáo liên kết con người với Thiên Chúa chặt chẽ nhất; hết thảy mọi người dù giàu hay nghèo; toàn thể  cong người, tâm trí, con tim, thể xác, các quan năng; toàn thể mọi người, dù da đen hay da trắng. Trong Ấn giáo và Phật giáo, quan niệm về Thiên Chúa vẫn còn lờ mờ. Trong các tôn giáo này không thấy nói có một lời mạc khải nào là do chính Thiên Chúa.
Tôn giáo chân chính cũng phải liên kết chúng ta với những người khác, nếu không nó chỉ là một thứ thuốc phiện cản trở ta tranh đấu cho phẩm giá của họ. Trong Kitô giáo tình yêu đối với tha nhân được đặt ngang tầm với tình yêu dành cho Thiên Chúa.
Sau hết, tôn giáo ấy cũng phải liên kết chúng ta với chính mình bằng cách giải thoát chúng ta khỏi lo âu, khỏi sự sợ hãi cái chết, hay khỏi tình trạng vô nghĩa của đau khổ. Nó phải có khả năng trả lời gãy gọn cho các câu hỏi căn bản của con người, thăng tiến phẩm giá con người , ban cho đời người một ý nghĩa.
Vì vậy, phải tìm hiểu xem, về phần mình, Thiên Chúa có mạc khải cho ta biết một phương thế nào để ta đến gặp Người, liên kết với nhau cũng như để trả lời cho các câu hỏi của chính mình. Sự mạc khải của Thiên Chúa là điều khả dĩ. Hồi giáo, Do thái giáo và Kitô giáo cùng tôn thờ một Thiên Chúa độc nhất đã tự mạc khải mình.
Tuy nhiên, nếu Thiên Chúa đã mạc khải mình, thì trong sứ điệp của Người không thể có sự mâu thuẫn được. Mạc khải ấy phải mạch lạc tự trong nội dung. Nói cách khác, không thể có nhiều tôn giáo được coi là do chính Thiên Chúa mạc khải chính thức.
Kitô giáo nhìn nhận và tôn trọng những giá trị trong các tôn giáo khác; chúng là những viên đá nằm chờ một sự mạc khải chính xác hơn của Thiên Chúa. Đã có những dấu chỉ của mạc khải đó: ấy chính là phép lạ của chính con người Đức Giêsu và sự sống lại của Người.
Là Thiên Chúa làm người, Đức Giêsu Kitô liên kết một cácn trọn vẹn nơi bản thân mình cả Thiên Chúa lẫn con người, Ngài liên kết mọi người lại với nhau và giải đáp cho các khát vọng sâu xa nhất của họ. Không ai đến được với Cha mà không qua Ngài.
Nếu trong những dấu chỉ cho biết chân lý của một tôn giáo là sự thăng tiến con người, thì Kitô giáo trong Đức Giêsu Kitô, đã thần linh hoá nhân tính và nhắm đến một tình yêu hoàn hoả, hẳn phải là tôn giáo cao nhất  và đòi hỏi nhất trong tất cả các tôn giáo.
Vấn đề còn lại là phải lựa chọn, trong số các Hội thánh tin vào Đức Kitô, Hội thánh nào trung thành với sứ điệp của Người hơn cả. Theo thiển ý của chúng tôi, đức tin Công giáo, là đức tin kỳ cựu nhất, xem ra đáp ứng được tiêu chuẩn này.
(1)     Chú thích của người dịch:
Khoảng năm 90 sau Công nguyên, Hội đồng Do thái, họp tại Jamia, ấn định Kinh thánh của người Do thái chỉ gồm 24 cuốn sách (tất cả đều viết bằng tiếng Hípri).
J.L.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét