Dẫn Nhập
Những phong tục,
tập quán, niềm tin là những nét đẹp của người Việt Nam được các thế hệ cha ông
truyền lại cho con cháu. Họ đã sống tốt với cuộc sống làm người và họ muốn con
cháu họ sống làm sao cho tốt. Những tâm tình được họ gửi gắm rất nhiều nơi những
lời hay ý đẹp và đặc biệt là những ngôn ngữ thông thường bằng ca dao, tục ngữ
hoặc những áng văn chương bất hủ được lưu giữ muôn đời. Nhưng dường như con người
ngày nay đang dần đánh mất đi những gì là phong tục, tập quán và truyền thống của
cha ông ta để lại, đánh mất đi những gì là tinh tuý cao quí của con người vốn
mang trong mình niềm tin khát khao trở về nguồn cội đích thực.
Tuy nhiên, niềm
tin vẫn không thể nào bị bỏ ra khỏi cuộc sống vì con người cho dù có giỏi, có
giàu tới đâu cũng có những khiếm khuyết, bất toàn, trống vắng trong thâm sâu
cõi lòng. Do đó, tín ngưỡng dân gian vẫn tồn tại ít nhất là trong lời nói hay
trong suy nghĩ của mỗi người. Niềm tin vào một Ông Trời vẫn mãi đi theo mỗi người
và từng thế hệ đã thể hiện niềm tin này. Vậy phải chăng tín ngưỡng thờ Trời của
người dân Việt Nam đã có từ xa xưa? Qua mọi thời, người Việt đã thể hiện niềm
tin đó với những suy nghĩ riêng của mình nơi truyền khẩu, nơi văn chương... Trời
là Đấng mà từ xa xưa, người dân Việt Nam cũng như người Trung Hoa đều tin Ngài
là Đấng rất linh diệu, rất thông minh, công bằng vô cùng, rất dễ yêu và hay tha
thứ mỗi khi con ngươi xúc phạm đến Ông. Đặc biệt, Ông là Đấng quyền phép vô
cùng không một ai có thể sánh ví như được.
Để hiểu rõ tín ngưỡng thờ Trời ở
Việt Nam, chúng ta đi tìm hiểu nguồn gốc, các cách thế mà người Việt đã thể hiện.
Bài viết tìm hiểu Trời trong tín ngưỡng Việt Nam sau đây sẽ được trình bày qua
các mục sau:
1/ Từ Ngữ “Trời”
2/ Chức Năng Của Trời
3/ Trời Trong Văn Hóa Người Việt
4/ Trời Trong Văn Chương Thi Ca
5/ Trời Trong Tín Ngưỡng Dân
Gian
6/ Nghi Thức Thờ Trời
7/ Nhận Định
1/ TỪ NGỮ
Với niềm tin
trong tín ngưỡng dân gian từ xưa cho đến nay, dường như tất cả mọi người, đều
tin Ông Trời là Đấng cao cả và vĩ đại. Ngài là Đấng vĩ đại vượt trổi hơn hết.
Không một vị thần thánh nào sánh được như Ngài và không một quyền lực nào ví được
như Ngài. Vì thế, ngay cách viết chữ Trời bằng Hán Nôm người xưa đã ngụ ý tôn
vinh Trời:
1.1/ Chữ
Hán- Việt: Trời là Thiên. Trước kia người ta phân tích chữ Thiên làm hai phần:
nét nhất là một, nét đại là lơn, ngụ ý chỉ Thiên là một Đấng Vĩ Đại, trổi vượt
trên tất cả mọi loài. Không một sự gì, hoặc bất cứ ai sánh được và ví được như
Ngài.
Nhưng theo cách
giải thích của linh mục Wieger, ngày nay được nhiều nhà khảo cổ công nhận. Chữ
Thiên theo nguyên tự, nét (-) chỉ không trung bao la và hình chữ Đại chỉ hình
người giang hai tay, hai chân: hội ý có ý chỉ Thiên là Một Vị Duy Nhất, ở trên
hết mọi người, vị Thiên ở trên cai quản mọi người ở dưới[1]..
1.2 Chữ Hán Nôm: Trời ghép bởi chữ Thiên ở
trên chữ Thượng. Điều này ngụ ý Ngài cao cả hơn trời đất, hơn suy tưởng của
muôn vật. Từ đó người ta tâm niệm rằng:
Đi
đâu cho khỏi lưới Trời,
Ở đâu cho hạp
mệnh Trời thì êm.[2]
1.3/ Trời
theo Từ Điển Tiếng Việt Phổ Thông: Chữ trời có năm nghĩa; 1/ trời là một
khoảng không gian vô tận ta nhìn thấy như một hình vòm úp trên mặt đất, 2/ trạng
thái của khí quyển, của khoảng không gian bao quanh con người ở một nơi, vào một
lúc nào đó, 3/ thiên nhiên, về mặt đối lập với con người, 4/ hoang dại, có sẵn
trong tự nhiên, không phải do người nuôi trồng, 5/ lực lượng siêu tự nhiên, coi
như ở trên cao, sáng tạo và quyết định số phận muôn loài trên mặt đất, theo tôn
giáo, tín ngưỡng dân gian.[3]
2/ Ý NGHĨA CỦA “TRỜI”
Có thể nói
khái niệm Trời rất thông dụng và phổ biến đã ăn sâu vào trong tâm thức của người
Việt. Khái niệm này đã ăn sâu vào trong huyết mạch mọi người dân không bất kể
người đã có tôn giáo hay chưa. Điều này nói lên một sự gắn bó giữa một bên là
thụ tạo bất toàn, một bên là Đấng nào đó sáng tạo và quan phòng, mà con người
chỉ biết một cách loại suy và gọi là Trời. Tuy nhiên, tùy theo bối cảnh mà người
ta có thể dùng từ này trong những bối cảnh khác nhau và ý nghĩa cũng khác nhau.
Chúng ta nhận thấy có ba ý nghĩa chính của Trời sau đây:
2.1 Vật lý:
Trời theo nghĩa này chỉ những sự vật, hiện tượng thiên nhiên cụ thể. Những hiện
tượng này chúng ta có thể quan sát được bằng mắt thường và người ta thường dùng
chữ trời để làm chủ từ khi trong câu khi nói về những hiện tượng đó.
2.2 Theo
nghĩa tâm lý: Người ta thường chỉ “Trời” như một ngôi vị, là một Đấng toàn
năng, có ý chí thưởng phạt, hoặc như một thế lực thiện. Trời che chở, bảo vệ
chúng sinh, nuôi dưỡng vạn vật, để nhân loại nhờ vào đó mà tồn tại. Trời là Đấng
mọi người kính sợ, để người ta làm lành lánh dữ hay kêu cầu khi gặp cùng cực, đau
khổ.
2.3 Trời
theo nghĩa khách quan: Trời là tiếng nói của lẽ phải như một đạo lý đại đồng,
bảo tồn trật tự nhân sinh và vũ trụ. Đạo Trời đồng nhất với tính chất sinh lý
hay tâm lý di truyền huyết thống: “Cha mẹ sinh con, Trời sinh tánh”. Đây là
quan niệm về Trời vừa hữu hình vừa siêu hình luân lý đã có sẵn trong ca dao tục
ngữ từ ngàn xưa.[4] Và trong
lời tựa về Tế Nam Giao, linh mục Léopold Cadière nhận xét:
Cảm thức về quyền năng tối thượng của Trời đã ấn dấu
sâu xa trong tâm thức tôn giáo người Việt. Ngôn ngữ bình dân không thiếu những
dẫn chứng bày tỏ niềm tin vào quyền lực của Trời: người ta viện dẫn Trời như một
nhân chứng, kêu đến Trời như một quan án, cầu Trời như một vị cứu tinh. Trời thấu
suốt mọi chuyện, Trời phán xét và trừng phạt, Trời nhân từ, Trời yêu thương, Trời
tác sinh, Trời bảo vệ: Trời làm chủ vận mạng nhân sinh.[5]
Và “Trời” theo sự diễn giải của cha Léopold Cadière có hai nghĩa: Một
là nghĩa thiên nhiên như bầu trời, trời đất..., trời như nguồn năng lực; trời sấm,
trời sét... Hai là “Trời” được nhân cách hóa: Ong Trời, vv.
3/ TRỜI TRONG VĂN HÓA NGƯỜI VIỆT
Ý niệm “Trời” vốn đã hiện hữu
trong tâm thức của
người Việt xưa từ thuở
nguyên sơ, trước khi những tôn giáo khác du nhập vào Việt Nam. Người Việt nhân
cách hóa vị thần không biết ấy và xưng gọi
là: “Ông Trời”. Trong tâm thức người Việt, từ ngữ “Trời” là một từ rất thông dụng.
Từ ngữ này có thể là một khoảng không gian bao phủ trên trên không, thiên
nhiên, thời tiết. Trời là sức mạnh thiên nhiên, sáng tạo và quyết định mọi sự.
Những vật hoang dại người ta cũng quy về cho trời vun trồng hay nuôi dưỡng: rau
diếp trời, vịt trời, của trời… Trời cũng dùng cho thời gian: ba năm trời xa
cách… Hay khi con người gặp chuyện không may, luyến tiếc, con người thốt lên:
trời ơi! Trời như là Đấng Thần linh có quyền phép và là chỗ dựa cho muôn loài
và con người. Tiếng “Trời” là tiếng mà người Việt, bất kể thuộc tầng lớp nào
trong xã hội, có tín ngưỡng hay không, vẫn thường thốt lên trong bất kỳ tình huống
nào, dù vui sướng hay đau buồn, than trách hay cầu cứu. “Ông Trời” là ông thần
không biết, không thấy được của người Việt, nhưng vẫn luôn hiện hữu cùng dân tộc
Việt qua ngôn ngữ phổ thông của người bình dân Việt Nam, được truyền tụng rộng
khắp trong dân gian và vẫn trường tồn trải qua bao nhiêu cuộc đổi thay.
Đời sống của người
Việt luôn gắn liền với niềm tin vào “Ông Trời”. Người Việt không biết Ông Trời
một cách cụ thể, nhưng cảm nhận được Ông Trời khi quan sát những cảnh vật chung quanh mình như
núi cao vời vợi, sông sâu thăm thẳm, biển rộng mênh mông, cùng với quy luật
sinh tồn của chúng. Người Việt ý thức được điều này do ai đó đã dựng nên:
Núi kia ai đắp nên cao
Sông kia biển nọ ai đào mà sâu?
Gai trên rừng ai bứt mà nhọn
Trái trên cây ai vo mà tròn?[6]
4/ TRỜI TRONG VĂN CHƯƠNG, THI CA
4.1/ Ông Trời Trong Ca Dao Tục Ngữ
Rất nhiều những
câu ca dao, tục ngữ lưu truyền trong văn hóa dân tộc Việt Nam đã nói đến Ông Trời.
Trong mọi lĩnh vực của cuộc sống người ta luôn nhắc đến Ông Trời và được lưu
truyền qua ngôn ngữ bình dân có vần điệu. Điều này đã để lại một kho tàng quý
báu mà từ thế hệ này tới thế hệ khác đã góp phần làm phong phú cho văn chương
dân gian Việt Nam. Trời thường là hậu cảnh, làm tăng lời hay ý đẹp, cho cảnh
thêm tình.
Trời
mưa cho lúa chín vàng
Cho
anh đi gặt, cho nàng đem cơm.[7]
Với cuộc sống nông nghiệp, người
Việt quen xem Trời để biết thời tiết cho mùa màng hay chăn nuôi gia cầm, gia
súc.
Trời
nắng tốt dưa, trời mưa tốt lúa.
Hay: Trời
đang nắng có gà trắng thì mưa.[8]
4.2/ Trời Trong Truyện Cổ Tích
Người Việt tin vào Ông Trời còn thể hiện trong các truyện cổ tích hay
truyện ngụ ngôn. Những câu truyện có vẻ ly kỳ, hoang đường, nhưng thật ra chứa đựng
niềm tin sâu xa của người Việt mang triết lý nhân sinh. Và qua đó, các câu truyện
cũng dạy con người về lối sống cho phù hợp luân thường đạo lý, dạy con người phải
đối xử tốt với nhau. Có những truyện cổ tích được truyền khẩu, từ xa xưa tới
ngày nay, như truyện Tấm cám, Trầu cau... Và truyện “Mai An Tiêm và Quả Dưa Hấu”
nói lên tín ngưỡng con người đối với Đấng làm phát sinh vạn vật và luôn phù hộ,
nuôi dưỡng chúng ta như câu tục ngữ: “Trời sinh, Trời dưỡng”. Câu truyện này
nói tới một bé trai tài giỏi, siêng năng, con vua Hùng Vương thứ 18, tên là An
Tiêm. Nhưng An Tiêm thích sống tự lập không cậy nhờ ai, chỉ cậy nhờ và tin ở
ông trời, anh thường nói cho bạn bè biết rằng “Sự thành công của anh là nhờ Trời
ban và công lao khó nhọc, tần tiện của vợ chồng anh, chứ anh chẳng cậy nhờ ai,
không nhờ vả ơn vua ban lợi lộc”. Vua Hùng biết An Tiêm đã nói như thế, nên nhà
vua nổi giận, bắt vợ chồng và đứa con trai đầy ra đảo Nga Sơn. Ở ngoài đảo hiu
quạnh, An Tiêm vẫn an ủi vợ con, hãy can đảm lên và tin tưởng vào Ông Trời: “Trời
sinh voi, Trời sinh cỏ”. Sống chết do Trời và cũng tại ta. Một hôm đi dạo
trên đảo, An Tiêm thấy con bạch hạc nhả hột xuống đất, và một loại cây giây leo
mọc lên, tàu lá xanh tươi, xum xuê lạ thường, lại có trái thơm ngon, lắm nước
ngọt ngào và rất sai trái. An Tiêm bảo vợ con:” Không trồng mà được ăn, đó là
Trời cho ta đấy”[9].
4.3/ Trời Trong Văn Chương
Nhiều tác phẩm văn chương nhìn theo phương diện
tín ngưỡng, ta có thể quả quyết: niềm tin cổ truyền vào Ông Trời rất sâu xa và
mãnh liệt, vì các tác giả đã hấp thụ được các quan niệm triết lý về Thiên Mệnh
của Khổng giáo. Các văn thi sĩ cũng như giới bình dân Việt nam cho rằng vũ trụ
nhân sinh được điều khiển do một Vị Chủ Tể càn khôn mà họ gọi là Thiên.
Dưới đây là vài thơ văn tiêu biểu cho niềm tin cổ
truyền vào Ông Trời, là Vị Hóa Công tạo thành vũ trụ. Ông Trời đã định đoạt cuộc
sống cũng như số mệnh cho dân tộc.
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. (Lý thường Kiệt)
Hoặc:
Trời sinh, Trời ắt đã dành phần
Tu hãy cho bền, dạ có nhân.
Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ,
Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần.
Bạo hung chỉn đã gươm mài đá,
Phúc Đức rành hay cỏ đượm xuân
Chớ có hại nhân mà ích kỉ,
Giấu người, khôn dấu được Linh-Thần. (Nguyễn Bỉnh Khiêm)[10]
Đây là một áng thơ đượm tính chất triết lý tôn
giáo về nhân sinh, về đạo lý làm người, về mối liên hệ giữa Ông Trời và phận sự
con người sống trên đời này, và phần phúc về đời sau. Cũng như nhiều tác giả đã
đưa Ông Trời vào văn chương, thi ca của mình để làm nổi bật cuộc sống nhân sinh
của mình đối với sự tín thác vào Ông Trời trong các tác phẩm như: Nguyễn Khuyến,
Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Du...
5/ TRỜI TRONG TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN
Trong tín ngưỡng
dân gian Việt Nam, có thể nói được rằng; niềm tin vào Ông Trời, Đấng Cao Cả là điều
không thể thiếu được. Bởi vì chỉ có Ông Trời mới thực là Đấng cao cả và vĩ đại,
Đấng sáng tạo và quan phòng, Đấng công minh và thông hiểu…
Đứng trước vũ trụ bao la, bát ngát, đầy những huyền
bí, mầu nhiệm, con người tự cảm thấy mình vô cùng bé nhỏ, yếu đuối. Có biết bao nhiêu sự lạ lùng, ngoài trí tưởng
tượng con người đã, đang và sẽ xảy ra. Tất cả đều ở nằm ngoài con người, ta
không có một quyền lực gì trên chúng cả. Ta còn hay mất thì chúng vẫn tồn tại
như thường. Đứng trước những huyền bí của vũ trụ bao la đó, con người biết suy
nghĩ và đặt niềm tin về một Đấng Tạo Hóa có quyền năng giải đáp mọi thắc mắc ưu
tư của đời sống. Niềm tin về một Đấng cao cả đó, từ ngàn xưa, người Việt gọi là
“Ông Trời"[11]!
5.1/ Ông Trời
Ông trời là từ ngữ thông dụng nhất đối với mọi người,
ngoài ra người Việt còn dùng nhiều từ khác nữa để chỉ ông trời như: Tạo Hóa,
Hóa Công, Hóa Nhi. Và còn nhiều từ nữa mà mọi người cũng quen thuộc với các
danh xưng như: Ngọc Hoàng, Hoàng Thiên, Thượng Đế, Thiên Chúa, Chúa Trời…
Mọi người nhìn lên vòm trời bao la làm gợi cho mình
một Ông Trời: Ai làm nên trời xanh lạ lùng như thế? Chắc hẳn, phải có một vị
làm Chủ đã tạo dựng nên những sự vật hùng vĩ đó. Do đó, con người hướng niềm
tin vào một Chủ Tể muôn loài. Vì thế, người ta đã gọi “Đấng ấy” là“Ông” như một
Ngôi vị toàn năng, uy quyền, thương xót và có thể lắng nghe, ban ơn phúc cho
mình:
Lạy Trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày...[12] (Ca dao)
Ông Trời đã tài tình tạo dựng muôn vật muôn loài, quan tâm, điều khiển, dưỡng
dục, nuôi nấng và bảo vệ cho vũ trụ và con người được tồn tại, cho hòa điệu
trong trời đất; “Trời sinh, Trời dưỡng”, hay “Trời sinh voi, Trời sinh cỏ”...
5.2/ Bà Trời
Tác giả
Phan Ngọc có nhận đinh về sự xuất hiện Bà Trời như sau:
Trong tín ngưỡng xa xưa,
văn hóa nông nghiệp phát sinh tín ngưỡng phồn thực và phụ nữ sẽ là chủ chốt. Nền
văn hóa nông nghiệp thường gắn liền với các hiện tượng thiên nhiên, liên quan tới
con người như là máu thịt. Có hai hiện tượng quyết định cuộc sống là nắng và mưa.
Ơ phương Nam, việc thờ trời là chung cho toàn dân. Xưa gọi là Bà Trời (“Ông trăng mà lấy Bà trời”), sau này
chịu ảnh hưởng Trung Quốc mới đổi thành Ông trời.[13]
Nền văn hóa
nông nghiệp từ xa xưa luôn phụ thuộc vào môi trường tự nhiên nên con người thường
thần thánh hóa các hiện tượng tự nhiên làm phát sinh tục thờ đa thần. Dần dần
phát sinh tín ngưỡng thờ Mẫu vốn mang gốc từ tín ngưỡng phồn thực, là sự cầu
mong sinh sôi nẩy nở của tự nhiên và con người. Lối sống của cư dân trồng lúa, phụ thuộc môi trường tự nhiên, dẫn đến
tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, thần hóa các hiện tượng: Đất, nước, lửa, cây,
mây, mưa, sấm, chớp… thành những vị thần, mà nữ thần chiếm địa vị áp đảo. Và các
thần phải là các Bà Mẹ, các Mẫu. Sau đó, từ tên cổ: Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước,
Bà Lửa, do ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa, mà có tên: Bà Thiên, Bà Địa, Bà Thuỷ,
Bà Hoả. Có ba Bà quản ba vùng; Trời - Đất - Nước, người ta gọi là Mẫu Thượng
Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải (Thuỷ)… Ngày nay vẫn còn một số dân tộc tồn tại
chế độ mẫu hệ như dân tộc Chăm, C’Hoh... Các dân tộc này vẫn còn giữ được tín
ngưỡng cổ xưa.
Theo nguyên lý
âm dương, đã có Ông Trời thì phải có Bà Trời. Trong các dân tộc, huyền thoại
và truyền thuyết dành cho nữ thần phần đáng kể. Để tạo lập vũ trụ có công của Nữ
thần Mặt Trời, Mặt Trăng, các Bà đã soi sáng và sưởi ấm cho mặt đất thuở chỉ có
bùn, nước và bóng tối. Huyền thoại Bà Nữ Oa cùng Ông Tứ tượng đội đá vá trời,
xây núi khơi sông, mà trong cuộc thi tài Bà Nữ Oa đã chứng tỏ được sức mạnh của
mình nên đã giành chiến thắng. Rõ ràng người xưa đã khoác cho tự nhiên, vũ trụ
thuộc tính nữ, mang tính sinh sản, tồn trữ và che chở. Do ảnh hưởng của Đạo
giáo Trung Quốc dạng thờ Tiên, tín ngưỡng Mẫu Thần dân gian phát triển thành Đạo
Mẫu Tam phủ, Tứ phủ.[14]
5.3/ Trời Sinh Trời Dưỡng
Từ thuở còn nằm
nôi cho đến khi khôn lớn, con người luôn được các bậc cha mẹ, anh chị đi trước
bảo ban dạy dỗ, qua nhiều cách thức khác nhau như; truyền khẩu, hát ru… để dạy
cho con cháu thế hệ đi sau nhận biết vũ trụ bao la do Trời tạo dựng nên, và lại
dùng các ông thần để tiếp tục công trình sáng tạo của mình là sáng tạo muôn
loài như bài “Ông Đếm”:
Ông tát bể.
Ông kể sao.
Ông đào sông...
Từ những chân
lý này, dân gian nghiệm thấy rằng; vũ trụ vạn vật này có được là do chính Ông
Trời làm ra. Nếu không có Ngài thì làm sao vũ trụ vạn vật này có đó và tồn tại:
Non kia ai đắp mà cao,
Sông kia ai bới, ai đào mà sâu.[15]
(Ca dao)
Một khi đã tạo dựng vũ trụ vạn vật rồi thì cũng
chính Ông Trời sẽ xếp đặt cho chúng có thứ tự ngăn nắp đâu vào đó, và cũng
chính Ngài đã an bài và quan phòng tất cả mọi sự để cho chúng được hiện hữu và
sinh sôi nảy nở ra nhiều trên mặt đất luôn mãi:
Trời sinh, Trời dưỡng.
Hoặc: Trời sinh voi, Trời
sinh cỏ.[16] (Ca dao)
Như vậy, Ông Trời đã tài tình tạo dựng muôn vật
muôn loài và sắp đặt an bài mọi sự cho chúng hiện hữu, đồng thời “Ông” quan
phòng, điều khiển, bảo vệ và dưỡng nuôi chúng. Sống hay chết đều ở trong quyền
hạn của Ông Trời, kể cả tình yêu và duyên phận.
Vì Trời là
sinh ra vạn vật, nên tất cả được Ông quan phòng và đều phải lệ thuộc vào, đều
phải qui hướng về Ông. Ông “cai quản như một vị Chủ Tể Tối Cao và không một điều
gì thoát khỏi vòng ảnh hưởng huyền diệu của Ngài. Ngài là nguyên nhân nội tại của
tất cả những sự việc xảy ra trên trần gian này. Vận mạng của con người cũng
hoàn toàn lệ thuộc quyền năng của Ngài. Không một sự việc gì xảy ra trong đời sống
của con người mà lại có thể nằm bên ngoài sự xếp đặt của Ông Trời”[17].
Tuy nhiên, đứng trước những khó khăn vất vả của cuộc
sống và của xã hội, con người khó lòng mà giữ được sự bình thản để không bộc lộ
những tâm tình buồn chán, thất vọng và phẫn nộ. Vì thế, đôi khi họ có những cử
chỉ, hành động đỗ lỗi cho Trời.
Trời sao Trời ở chẳng cân
Người ăn không hết người lần không ra. (Ca dao)
Hoặc:
Lá vàng còn ở trên cây,
Lá
xanh rụng xuống Trời chăng hỡi Trời. (Ca dao)
Với
những lời than thân trách phận và oán Trời như trên, một cách gián tiếp, họ đã
công nhận quyền năng phép tắc quản cai của Trời. Vì thế nếu con người có than
thân trách phận, phản đối hay lăng mạ cả đến Ông Trời thì cũng uổng lời, cũng sẽ
chẳng thay đổi được gì nếu không đặt niềm tin vào Trời. Vậy phải bằng lòng với
số phận là hơn cả, vì hạnh phúc hay đau khổ của ta đều tuỳ thuộc vào ý Trời, Trời
định:
Đã mang lấy
nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn Trời gần Trời
xa.
Thiên căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. (Truyện Kiều)
5.4/ Trời - Đấng Giáng Phúc
Yêu thương là bản tính của Ông Trời, nên Ông Trời đã tạo dựng vũ
trụ vạn vật cho con người tận hưởng. Ngài hằng phù giúp những ai thành tâm, thiện
chí và can đảm chấp nhận, chiến đấu với những nghịch cảnh, những bất trắc của
xã hội. Với người hiền hoà nhân hậu, ăn ở nết na, có tình có nghĩa giữa người với
người thì làm sao họ lại không gặp được điều lành, điều may, điều phước…, làm
sao Trời lại không ban ơn giáng phúc cho người ấy:
Ở hiền gặp
lành
Những
người nhân đức Trời dành phúc cho. (Ca dao)
5.5/ Trời - Đấng Công Minh
Người Việt tin
Ông Trời là Đấng có uy quyền tuyệt đối, soi thấu được vạn vật, kể cả những gì
thầm kín nhất ẩn dấu sâu tận đáy lòng con người. Đối diện với những điều bí mật
nhất mà con người vô phương phát hiện thì người ta thường nói: “Chỉ có Trời mới
biết”. Người Việt tin Ông Trời nhìn thấy tất cả những sự việc xảy ra trên đời. Niềm
tin này nói lên Trời là Đấng công bằng, thưởng phạt công minh.
Đi đâu cho
khỏi lưới Trời
Ở đâu cho
hạp mệnh trời thì êm. (Ca dao)
Trời là Đấng cầm cân nảy mực phân xử mọi vấn đề
trong cuộc sống nhân sinh. Không một sự việc gì ta làm mà Ông không biết và cũng
không một hành vi, cử chỉ nào của ta mà lọt được mắt Ngài: “Ai bảo Trời không
có mắt”. (tục ngữ)
Trời không bao
giờ đối xử bất công với những con người thành tâm thiện chí, với những con người
vô tội: “Trời nào có dong kẻ gian, có oán người ngay”. (Ca dao)
5.6/ Trời -
Cứu Cánh Của Con Người.
Nếu
như Phật giáo coi cái chết là bị Nghiệp cuốn vào luân hồi, là đầu thai tiếp
sang kiếp khác, thì người Việt Nam luôn quan niệm Trời là nguyên nhân và là mục
đích tối hậu, mục đích cuối cùng của con người. Bởi thế đối với họ, cái chết
không phải là hết, là hư vô, là sự tiêu diệt hoàn toàn, mà cái chết là giải
thoát cuộc đời tạm bợ này để trở về với Trời, về với Đấng Cội nguồn mọi thụ tạo:
“Sống gửi thác về”. Trong tiếng Việt “Chết” hay “qua đời” dân gian thường
dùng những kiểu nói như: “về Trời”, “quy Tiên”, “về chầu Trời”...
Bao giờ ông lão chầu Trời. (Ca dao)
Hoặc: Sinh
ký tử qui.
Tóm lại,
trên đây ta chỉ sơ lược về ưu phẩm, đặc tính của Trời và
vài ý nghĩa của tiếng Trời, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều những vấn đề chưa tìm
hiểu hết. Và trong bài viết này chỉ nêu ra một cách tổng quát về niềm tin ở Ông
Trời.
6/ NGHI THỨC
THỜ TRỜI
Trải qua năm tháng, tín ngưỡng thờ
Trời đã để lại nhiều chứng tích ở miền Nam hơn ở miền Bắc. Phải chăng miền Bắc chịu nhiều ảnh hưởng của người
Trung Hoa hơn miền Nam bởi những ảnh hưởng của các đạo: Lão, Nho, Phật giáo đã
làm cho tâm thức người Việt Nam phần nào cũng bị thay đổi. Tuy nhiên, tín ngưỡng
thờ Trời vẫn là điểm nòng cốt, vẫn là điều không thể thiếu đối với người dân Việt
Nam. Và người Việt có tin Ông Trời nhưng cũng ít ai làm lễ thờ Trời. Sau đây là
một vài kiểu thờ Trời của người Việt.
6.1 Bàn thờ Trời.
Nếu những ai
không theo một tôn giáo đặc thù nào thì người ta thường làm một bàn thờ ngay trước
sân, bàn thờ đó được gọi là“bàn thờ Ông Thiên” hay “bàn thờ Thông Thiên”, “bàn
thờ Bà Thiên”, “bàn thờ Bà Thiên Đài”. Nếu gia đình nào không có sân thì bàn thờ
này được đặt ngay trước hiên nhà hay bất cứ nơi nào tiện cho việc tôn kính Trời.
Bàn thờ này rất đơn giản, chỉ có một tấm ván trên một trụ gỗ, hoặc một tấm đan
trên một cột đúc... Tấm ván đó chính là “Bàn Thờ Trời”.
Lễ dâng cúng Ông
Trời thật là đơn giản: chỉ một bình bông hoa tươi, một bát nhang thơm với một
chén nước lã tinh khiết là đủ lễ vật để dâng kính Trời. Với những lễ vật như thế
thì đối với một gia đình nông dân, dù có nghèo đến mấy đi chăng nữa hàng ngày cũng
có thể kiếm được những lễ vật như thế để
dâng kính Ông Trời. Mỗi sáng chiều, ít nhất là người gia trưởng ra đứng trước
bàn thờ tay cầm nhang vái lạy bốn phương, miệng lâm râm với những lời khấn cho
gia đình an vui hạnh phúc, làm ăn tấn tới, cho mưa thuận gió đều…
Lạy Trời mưa
thuận gió hoà,
Để cho
chiêm tốt mùa tươi em mừng.
Ngô khoai chẳng
tươi thì đừng,
Có nếp có
tẻ trông chừng có ăn. (Ca dao)
Và:
Mỗi đêm mỗi
thắp đèn Trời,
Cầu cho
cha mẹ sống đời với con. (Ca dao)
Với bàn thờ, lễ
vật và cung cách tế Trời như thế nói lên một niềm tin, tín ngưỡng rất thâm sâu
của dân gian vào Đấng có toàn quyền trên con người. Chính nơi đây họ luôn ý thức
về mối liên hệ giữa Trời và Đất, giữa người với người trong tâm tình tương thân
tương ái.
6.2/ Lễ Tế
Nam Giao.
Ở trong cấp độ
gia đình, nếu người gia trưởng là người xứng hợp và là người đại diện gia đình để
tế Trời thì trong cấp độ quốc gia, Vua chính là người xứng hợp nhất và là người
đại diện toàn dân để tế Trời.
Học giả Đào
Duy Anh có viết:
Trong loài người, gần với thiên lý nhất là thánh nhân,
rồi đến quân tử. Cho nên thánh nhân là người được trời uỷ cho cái thiên chức thống
trị nhân dân, tức là thiên tử, còn quân tử là những người giúp vua mà cai trị
nhân dân, tức là các quan. Theo học thuyết ấy thì quan lại chỉ biết mệnh vua,
mà vua chỉ biết mệnh Trời. Cho nên chỉ vua và các quan được tế Trời, còn nhân
dân chỉ được thờ tổ tiên và quỉ thần. Mỗi năm vua phải ngự đến đàn Nam Giao, là
tế đàn hình tròn xây ở phía nam cung thành để tế Trời là gốc sinh thành của vạn
vật[18].
Linh mục Léopold
Cadière một nhà truyền giáo rất am tường về văn hoá, về tín ngưỡng của người Việt
cũng nhận xét:
Có lẽ việc thờ Trời được tập trung nhiều nhất trong việc
Tế Nam Giao. Trong nghi lễ này, việc tế tự mang sắc thái hoành tráng uy nghi tương
xứng với sự cao cả của đấng tôn thờ, thể hiện sự tinh tuyền của niềm tin vào Trời,
phản ánh những tâm tình sâu lắng mà Trời khơi dậy trong tâm hồn họ. Hoàng đế được
xem như là vị thừa ủy, đại diện của toàn dân: Nhân danh hết thảy thần dân, ông
ta phủ phục, dâng tế, tạ ơn và cầu khẩn. Nếu như niềm tin vào quyền năng cao cả
của Trời là cao quý nhất, thuần khiết nhất của toàn bộ tín ngưỡng người Việt,
thì việc Tế Nam Giao thể hiện một cách trang trọng tín ngưỡng ấy cũng là hành
vi cao cả nhất của việc sùng bái tôn thờ của họ.[19]
Một vài nhận
xét trên, ta cũng thấy tục lệ Tế Nam Giao ở chế độ quân chủ trước đây là một việc
tốt và rất cần thiết trong niềm tin, tín ngưỡng của người Việt.
Với hoàn cảnh
và thời đại hôm nay, ở nước ta, tục lệ tế đàn Nam Giao không còn nữa nhưng nó vẫn
in sâu vào trong văn hoá của người Việt. Đây là một việc
mang đầy ý nghĩa linh thiêng, đậm mầu sắc văn hoá tín ngưỡng của người Việt với
tâm tình kính thờ Trời. Mục đích của việc làm này là để Trời ban phước, cho dân
an nước mạnh. Đàn Nam Giao là nơi giao hoà giữa Trời và Đất, là nơi nối kết
tình Trời, tình người.
6.3/ Thờ Trời
trong các Lễ cổ truyền
Trong các ngày lễ tết cổ truyền của
người Việt, người ta nghĩ tới cội nguồn đích thực của mình mà họ nghĩ là Ông Trời.
Ngày tết, người ta nhớ đến Trời và họ tâm niệm những lời cám ơn, cử chỉ tế Trời,
vái Trời với những cây nhang và khấn xin cho gia đình sang năm mới được an khang,
thịnh vượng và mọi người được sống trong mạnh khoẻ, an vui, hạnh phúc. Như thế
Ông Trời luôn được người Việt Nam nhớ đến đầu tiên của những ngày lễ, ngày tết
cổ truyền. Tín ngưỡng này có lẽ xuất phát từ lối sống nông nghiệp và tập trung
theo làng xã, cho nên trời đất và con người luôn luôn gắn kết với nhau. Họ sống
trong sự liên kết, đùm bọc nhau và họ biết sống, biết suy xét, biết suy nghĩ có
trước có sau, có trên có dưới, có cao có thấp. Họ chỉ mơ hồ biết Ông Trời và
coi đó là nguyên lý phát sinh mọi loài và do đó, trong các nghi lễ cổ truyền, họ
nhớ đến Ông Trời đầu tiên. Trời như là Đấng thưởng phạt cuộc sống con người và
do đó họ phải biết cách xử sự với nhau cho phải lẽ, biết sống cho tròn bổn phận
và trách nhiệm hầu sinh nhiều hữu ích cho cuộc sống. Nhờ biết sống tình nghĩa với
Ông Trời và với người, người việt cũng mong mai này sẽ được hưởng phần phúc Trời
ban. Lễ vật tế Trời cổ truyền mà người Việt hầu như ai cũng tự làm được đó là
Bánh Chưng, Bánh Dày (còn gọi là bánh Tét, chữ tét có lẽ là đọc trệch của chữ tết).
Bánh chưng tượng trưng cho đất, bánh dày tượng trưng cho Trời. Hai thứ bánh này
làm lễ vật như là một sự kết giao giữa Trời với đất, là nơi phát sinh, sinh sống
và trở về của con người.[20]
7/
NHẬN ĐỊNH.
Sau khi tìm hiểu
sơ lược mấy điểm trong quan niệm về Trời nơi tín ngưỡng dân gian Việt Nam, một
vấn đề được đặt ra: phải chăng Ông Trời mà bao người Việt Nam minh nhiên nhìn
nhận thật sự có hiện hữu không? Và sao lại gán cho Ngài quá nhiều những ưu phẩm
như vậy?
Để trả lời cho
câu hỏi này, thiết tưởng nếu ai đó trả lời có hoặc không có ngay lập tức, e rằng
hơi vội vàng và nếu quả quyết rõ ràng Trời đó đích thực là Đấng Tối Cao, Duy nhất,
có bản vị, ngôi vị như Thiên Chúa trong Kitô giáo thì sợ rằng lại quá bạo dạn
và thái quá. Đành rằng niềm tin của người dân tin tưởng vào Ông Trời là có thực.
Nhưng Ông Trời đó hẳn thật có Ngôi vị, có nhân tính và thiên tính như Thiên
Chúa trong Kitô giáo hay không lại là một chuyện, thực tế như ta đã tìm hiểu ở
trên thì niềm tin vào Ông Trời trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam còn chung
chung, mơ hồ và khác rất nhiều với niềm tin đích thực vào Một Thiên Chúa của mặc
khải. Vả lại việc thờ trời trước đây cũng như bây giờ được biểu lộ rất ít, có
những vùng không thấy có tục tế tự này.
Kết Luận
Tín ngưỡng thờ
Trời trong dân gian Việt Nam là một tín ngưỡng tự nhiên đã có từ rất lâu. Vì là
tín ngưỡng tự nhiên nên mọi cung cách thờ tự trông có vẻ như đơn sơ mộc mạc, có
vẻ như mông lung mơ hồ… nhưng đây là một tín ngưỡng rất đáng trân trọng trong
kho tàng văn hoá Việt Nam. Tuy tín ngưỡng này vẫn còn mang
màu sắc bình dân nhưng không thể thiếu đối với người dân Việt Nam.
Vì thế cho dù
bất cứ ở thời đại nào, phương trời nào, người Việt Nam trong mọi tầng lớp từ
vua quan, sĩ phu đến dân thường vẫn luôn tôn thờ Trời là Đấng Cao Cả vĩ đại.
Ngài là Đấng có toàn quyền trên vũ trụ, trên sinh mạng con người. Ngài là Đấng
công minh chính trực, khoan dung nhân hậu và giầu lòng thương xót đối với mọi
người không phân biệt địa vị giai cấp, không phân biệt mầu da sắc tộc. Và cho
dù gia đình nào có nghèo khổ đến đâu đi chăng nữa thì việc sắm lễ vật dâng kính
Trời cũng không phải là chuyện khó khăn vượt sức họ.
Khái niệm về
Ong Trời của tín ngưỡng người Việt được thể như một Đấng tối cao, Siêu Việt. Trời
sinh ra vạn vật, Trời quan tâm nuôi dưỡng, nên mọi người đến với Trời hằng ngày
trong ngôn ngữ thông thường, được thể hiện rất nhiều trong ca dao, tục ngữ, văn
chương.
NVT.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét