Chửi, nói nhăng nói cuội, tất nhiên không phải là một hành vi văn hóa. Nhưng lại có một thú văn hóa...gọi là văn hóa chửi.
Cuộc sống phức tạp thường dễ va chạm, xung đột.
Mà có xung đột thì có cách giải quyết.
Mà muốn giải quyết thì có nhiều cách: "đối thoại", hoặc "đối đầu".
Mà đối đầu "hiền lành" nhất có lẽ là "đấu võ mồm", tức là chửi nhau.
Mà trong việc chửi nhau người Việt chửi rất cân đối, nhịp nhàng, đầy chất thơ, không chỉ là chửi mà cả cách thức chửi, dáng điệu chửi, cũng mang tính nhịp điệu. Với lối chửi có vần điệu, cấu trúc chặt chẽ, người Việt có thể chửi từ giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác mà không nhàm chán. Đó là một nghệ thuật độc đáo mà có không dân tộc nào trên thế giới có được - Văn hóa chửi!!!
Tình huống 1: Lời chửi của một người đàn bà mất gà trong tiểu thuyết Bước đường cùng của Nguyễn Công hoan:
''''Làng trên xóm dưới, bên sau bên trước, bên ngược bên xuôi! Tôi có con bà mái xám mới ghẹ ổ, nó lạc ban sáng mà thằng nào con nào , đứa ở gần mà qua , đứa ở xa mà lại , nó dang tay mặt, nó đặt tay trái, nó bắt mất của tôi, thì buông tha thả nó ra , không thì tôi chửi cho đấy!
Chém cha đứa bắt gà nhà bà, chiều hôm qua bà cho nó ăn nó vẵn còn .Sáng hôm nay con bà gọi nó nó vẫn còn , mà bây giờ nó đã bị bắt mất. Mày muốn sống mà ở với chồng với con mày, thì buông tha thả nó ra cho nó về nhà bà. Nhược bằng mày chấp chiếm , thì bà đào mã thằng tam tứ đại nhà mày ra , bà khai quật bật săng thằng ngũ đại lục đại nhà mày lên. Nó ở nhà bà, nó là con gà. nó về nhà mày , nó biến thành cú thành cóc, thành thần nanh đỏ mỏ, nó mổ chồng, mổ con, mổ cả nhà mày cho mà xem.
Ới cái thằng chết đâm, cái con chết xỉa kia. Mày mà giết gà nhà bà thì một người ăn chết một, hai người ăn chết ha, ba người ăn chết ba. Mày xuống âm phủ thì quỷ sứ thần linh rút ruột ra... ???
Cuộc sống phức tạp thường dễ va chạm, xung đột.
Mà có xung đột thì có cách giải quyết.
Mà muốn giải quyết thì có nhiều cách: "đối thoại", hoặc "đối đầu".
Mà đối đầu "hiền lành" nhất có lẽ là "đấu võ mồm", tức là chửi nhau.
Mà trong việc chửi nhau người Việt chửi rất cân đối, nhịp nhàng, đầy chất thơ, không chỉ là chửi mà cả cách thức chửi, dáng điệu chửi, cũng mang tính nhịp điệu. Với lối chửi có vần điệu, cấu trúc chặt chẽ, người Việt có thể chửi từ giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác mà không nhàm chán. Đó là một nghệ thuật độc đáo mà có không dân tộc nào trên thế giới có được - Văn hóa chửi!!!
Tình huống 1: Lời chửi của một người đàn bà mất gà trong tiểu thuyết Bước đường cùng của Nguyễn Công hoan:
''''Làng trên xóm dưới, bên sau bên trước, bên ngược bên xuôi! Tôi có con bà mái xám mới ghẹ ổ, nó lạc ban sáng mà thằng nào con nào , đứa ở gần mà qua , đứa ở xa mà lại , nó dang tay mặt, nó đặt tay trái, nó bắt mất của tôi, thì buông tha thả nó ra , không thì tôi chửi cho đấy!
Chém cha đứa bắt gà nhà bà, chiều hôm qua bà cho nó ăn nó vẵn còn .Sáng hôm nay con bà gọi nó nó vẫn còn , mà bây giờ nó đã bị bắt mất. Mày muốn sống mà ở với chồng với con mày, thì buông tha thả nó ra cho nó về nhà bà. Nhược bằng mày chấp chiếm , thì bà đào mã thằng tam tứ đại nhà mày ra , bà khai quật bật săng thằng ngũ đại lục đại nhà mày lên. Nó ở nhà bà, nó là con gà. nó về nhà mày , nó biến thành cú thành cóc, thành thần nanh đỏ mỏ, nó mổ chồng, mổ con, mổ cả nhà mày cho mà xem.
Ới cái thằng chết đâm, cái con chết xỉa kia. Mày mà giết gà nhà bà thì một người ăn chết một, hai người ăn chết ha, ba người ăn chết ba. Mày xuống âm phủ thì quỷ sứ thần linh rút ruột ra... ???
HIỆN TƯỢNG CHỬI CỦA NGƯỜI VIỆT
TỪ THỰC TẾ ĐẾN NGÔN NGỮ VĂN HỌC
Kho tàng ca dao Việt Nam đã đúc kết rất nhiều đặc điểm, cách thức và kinh nghiệm giao tiếp của người Việt. Những câu ca dao như Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau; Đất xấu trồng cây khẳng khiu, những người thô tục nói điều phàm phu. Đất tốt trồng cây rườm rà, những người thanh lịch nói ra dịu dàng…Trong cuộc sống hàng ngày, các bà mẹ Việt vẫn thường răn dạy con cái: Thép vàng ai nỡ uốn câu, người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời…Ấy thế nhưng, trên thực tế có một hiện tượng giao tiếp lời nói khá độc đáo, đấy là hiện tượng chửi. Ở một góc nhìn nào đó ta có thể thấy đó không phải là thứ ngôn ngữ điêu toa, chợ búa, một hiện tượng phi ngôn ngữ…Từ trong cuộc sống và qua việc tìm hiểu bằng tác phẩm văn học thì đây là một hiện tượng ngôn ngữ vừa thể hiện sử vận dụng linh hoạt ngôn ngữ dân tộc vừa thể hiện một nét tính cách của người Việt bên cạnh việc sống trọng tình thiên về hòa hợp là thái độ quyết liệt trước cái xấu của họ.
Nét riêng trong nghệ thuật ngôn từ Việt Nam nhìn từ góc nhìn văn hóa.
Ngôn ngữ không chỉ là một hiện tượng giao tiếp, lưu truyền kinh
nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngôn ngữ là biểu hiện rõ nhất của
diện mạo, cốt cách, linh hồn của một dân tộc. Nét riêng của nghệ thuật
ngôn từ Việt Nam theo Trần Ngọc Thêm là mang tính biểu trưng; giàu chất
biểu cảm và tính động, linh hoạt. Tính biểu trưng, tính chất này biểu
hiện rõ ở xu hướng khái quát hóa, ước lệ hóa, công thức hóa với những
cấu trúc cân đối mang tính hài hòa. Xu hướng ước lệ hóa bộc lộ rõ ở chỗ
tiếng Việt thích những cách diễn đạt bằng các con số biểu trưng, các từ
chỉ số lượng mang tính chất ước lệ Ba hoa chích chòe; ba bè một mối..
Điều này ít nhiều chi phối đến văn hóa giao tiếp của người
Việt, đặc biệt là trong nghi thức lời nói. Đó là sự phong phú trong hệ
thống xưng hô, biểu hiện trong các tính chất: thân mật hóa, cụ thể hóa,
xã hội hóa, tính đa nghĩa và tính tôn ti với tâm lý nhường nhịn, hòa
thuận… Sự thống nhất các tính chất trên làm cho hệ thống ngôn ngữ xưng
hô của người Việt hết sức tinh tế và linh hoạt. Đây là một điều hiếm gặp
trong ngôn ngữ thế giới. Điều này được thể hiện trong hiện tượng Người Việt chửi phổ biến trong đời sống, và cũng không phải là không xuất hiện trong văn học
Hiện tượng người Việt chửi trong thực tế đời sống
Nhắc đến chửi, người ta nghĩ ngay đến một hiện tượng ngôn ngữ, lời
nói của cá nhân được phát ra trong trạng thái tức giận, oan ức hay trong
một tình trạng mâu thuẫn xung đột gay gắt nào đó v..v…chửi có thể là từ
hai người, hai đối thủ, người này chửi, người kia đáp trả lại. Hay cũng
có thể chỉ một người chửi để nhằm hạ nhục một đối tượng nào đó giấu mặt
đã gây ra nông nỗi khiến người chửi phải chịu đựng, cho kẻ giấu mặt bị
đay nghiến, xỉ vả mà đau âm đau thầm. Còn người chửi vì thế mà cũng nhẹ
lòng, nhẹ dạ!
Độc đáo là ở chỗ trong khi người Việt chửi nhau, họ luôn lựa
chọn “phương pháp” chửi hết sức bài bản, các câu chửi nghe ra rất trôi
chảy, cân đối, nhịp nhàng mà cũng rất đỗi thơ văn! ra ngành ra ngọn, vừa
đủ “nói quá” để hả lòng mà cũng đủ sức hạ nhục người nghe. Không phải
ngẫu nhiên mà ngôn ngữ dân gian Việt Nam vẫn gọi đùa việc chửi bằng các
từ chỉ các loại hình nghệ thuật diễn xướng như “ca”, “tế”, “hát”. Đây là
câu mà ta vẫn thường hay nghe trong cuộc sống hàng ngày: “Mày nói xấu
mụ ấy không sợ mụ ấy tế cho một trận à?; Hôm qua về trễ bị mẹ tao ca cho
một trận”. Ai đã từng chứng kiến bài chửi của các bà, các cô ở nông
thôn vì bị mất một con gà (một của cải vật chất gì đó), hoặc bị một điều
uất ức nào đó, sẽ thấy kho từ vựng của họ mới thật là phong phú, dồi
dào biết bao. Với những giọng bổng, giọng trầm lên lên xuống xuống nhịp
nhàng, hai bàn tay với ra đưa vào như thể chực dúi đối thủ xuống đất,
hai chân ống quần xắn cao, váy vén lên. Họ như thể là một diễn viên thực
thụ đang diễn xướng cả âm thanh và nhịp điệu vậy.
Cuộc sống không đơn giản với những mối quan hệ bình lặng. Những
xung đột mâu thuẫn luôn diễn ra. Đàn ông thì có thể xông vào đánh nhau
một trận cho nó ra sao thì ra, dù phải sứt đầu mẻ trán. Còn đàn bà “chân
yếu tay mềm” chỉ có thể tung một thứ “võ mồm” là chửi mà thôi.
Nội dung chửi của người Việt xem ra rất phong phú. Với mục đích
là hạ nhục đối phương; làm đau đối phương thì trong mỗi lời chửi thường
gắn đối tượng bị chửi vào hàng độc ác, ghê tởm như: yêu ma, quỷ quái.
Hay các con vật: chó, mèo, lợn. Bởi đương nhiên là trong mắt họ, đối
tượng xấu xa không thể ngang hàng với con người được. Và cả việc réo gọi
tổ tiên, cụ kỵ của đối phương lên cũng được người chửi “sử dụng” nốt!.
Nguyền cho đối phương gặp những điều không may mắn, sao cho chúng “chết
bất đắc kỳ tử” thì thôi! Có một nội dung chửi nữa là bới móc những
chuyện xấu xa của đối phương để phơi ra cho bàn dân thiên hạ thấy (đây
là lý do tại sao người chửi lại chọn những vị trí như cổng làng, ngã
năm, ngã bảy, chợ… để chửi, hòng cho nhiều người nghe được). Nhổ toẹt
vào đó sự khinh bỉ trên cương vị các giá trị đạo đức xã hội. Nói tóm lại
là có hằng hà sa số những điều xấu xa để có thể bôi nhọ, để người chửi
có thể mặc sức tuôn những bài chửi của mình dài dài, đến khi nào mệt thì
thôi!
Có người băn khoăn vì sao dân tộc Việt Nam là một dân tộc sống
trọng tình thiên về hòa hợp, người phụ nữ truyền thống Việt Nam là người
vốn mang bản chất hiền thục nết na, vậy tại sao lại kết tinh những bài
chửi đáo để thế kia. Thật ra, người Việt hết sức trọng danh dự và uy
tín, trọng tình cũng là một yếu tố dẫn đến việc họ không thể chấp nhận
việc những kẻ xấu bất chấp danh dự và tình cảm để làm những công việc
xấu xa. Chửi cũng là một “phương thức” dằn mặt thâm thúy nhất cho những
kẻ mang thói hư tật xấu trước cộng đồng. “Hiền với bụt nhưng không hiền
với ma”, ấy cũng là thái độ quyết liệt trước cái xấu của người Việt.
Người phụ nữ Việt dịu dàng là thế nhưng khi gặp phải những chuyện không
mong muốn do người khác đưa lại họ cũng ra điều đáo để khác thường.
Những bài chửi ấy có lẽ là tuyệt chiêu của họ!
Đến ngôn ngữ văn học
Trong tác phẩm Quê người, nhà văn Tô Hoài đã miêu tả nhân
vật bà Ba, em ông Nhiêu, cô của cô Ngây. Mọi chuyện bắt đầu từ khi Ngây
và các bạn sang làng bên xem hát hội. Thằng Khói chọc ghẹo Ngây nhưng
không được Ngây cởi mở vì cô đã đem lòng yêu người khác. Tức mình anh
chàng bèn thuê người viết cáo thị dán ngay cổng làng, đặt điều bôi nhọ
Ngây: Làng ta lắm chuyện nực cười/ Cái ông Nhiêu Thục mặt thời đỏ
gay/ Được cô con gái gớm thay/ Mười chin tuổi rày tính đã giăng hoa/
Làng Thượng cho chí làng Nha… Rồi còn đệm thêm một câu vừa răn vừa chửi Đứa nào mà bóc của ông cái giấy này thì chết một đời cha, ba đời con đấy!
Rõ ràng đây là một điều vu cáo trắng trợn của kẻ ném đá giấu
tay, gắp lửa bỏ tay người, lén lút làm hại người khác theo kiểu “không
ăn được thì đạp đổ”. Tờ cáo thị trên quả là tro trấu mà kẻ xấu bôi trát
vào mặt người ngay, khiến họ phải chịu sự hiểu nhầm, dè bỉu của bàn dân
thiên hạ, rồi ra mặt mũi nào mà nhìn người khác nữa. Nhất là con gái, ai
người ta cưới, ai người ta hỏi “nhân vật” bị sỉ nhục kia? Cô Ngây (nhân
vật trong truyện) chỉ biết cúi mặt đau đớn vì lời vu khống. Bố cô, ông
Nhiêu chỉ biết giận. Bởi họ đâu có bằng chứng gì về kẻ gieo rắc điều xấu
xa tai quái kia. Còn bà Ba- em gái ông Nhiêu, cô ruột Ngây, một người
từng có lịch sử về những cuộc chửi nhau thì không đời nào chịu yên. Bà
phải phát huy thế mạnh món võ mồm của mình ngay tức khắc, để bảo vệ sự
trong sạch cho đứa cháu, để dằn mặt thằng mất dạy nào đó và để hả giận,
thỏa nỗi oan ức cho cháu bà. Đấy là nguồn cơn của bài chửi đặc sắc sau
đây. Nhà văn viết:
Buổi trưa hôm ấy, văng vẳng có tiếng mõ cốc. người ta thấy
bà Ba đi giữa đường, một tay cầm ống tre, một tay cầm cái dùi. Đằng sau
bọn trẻ đi theo. Áo bà thắt lưng bó que. Hai bên thành váy xắn cao gọn
gàng. Mỗi khi đi đến một ngã ba là đứng dựng lại. Bà gõ một hồi mõ rồi
chắp tay ra sau lưng, cất cao tiếng làm một bài vừa chửi, vừa rủa.
Hóa ra, tư thế của bà Ba cũng hết sức đường hoàng, trịnh trọng.
Quần áo chỉnh tề khác nào “Hiệp sĩ đi đòi công lý”! điều làm ta ngạc
nhiên hơn nữa là trong tiếng chửi của bà còn đệm thêm tiếng mõ cốc văng
vẳng. Những tiếng chửi kia mới thật là điệu nghệ khi có sự hỗ trợ của
nhạc điệu là tiếng mõ cốc chăng? Và đây mới là bài chửi của bà:
Ới thằng liền ông, ới con liền bà! Ới đứa già! ới đứa trẻ! ới
đứa nào đêm hôm qua xỏ xiên gì nhà tao thì nó dỏng mái tai, gài mái tóc,
gọi ông bà vải cụ kị nó lên để nghe bà chửi để bà ể vào đầu lâu hoa cái
nhà nó..ó..ó..ó. Nó đi đằng xuôi, nó chết đằng xuôi; Nó đi đằng ngược,
chết đằng ngược; đi tàu đắm tàu, đi ô tô chẹt ô tô. Nhà nó đương đông
đàn dài lũ thì lăn đùng thổ tả cả ra…
Trong “liên khúc” chửi trên của bà Ba. Có cả việc réo gọi đối tượng mang tính chất phiếm chỉ: Thằng liền ông, con liền bà, đứa già, đứa trẻ, đứa nào…
Nghĩa là đứa nào gây ra điều xỏ xiên cho gia đình nhà bà, cháu bà dù ở
đối tượng nào cũng phải nhận lấy hậu quả này. Đối tượng bị chửi trong
danh sách liệt kê của bà hầu khó thoát được. Màn mở đầu là nêu nguyên
nhân của việc chửi, rồi thì chửi thật bằng việc réo gọi ba đời Ông vải cụ kị rồi nguyền rủa bằng những tai ương ghê gớm: Chết vì chẹt ô tô, vì đắm tàu đến cả việc bị bệnh cả nhà.
Ngay đến nhịp điệu lời chửi cũng hết sức trôi chảy, vần điệu
đối xứng như một bài thơ. Với các vế đối nhau chan chát, này nhé: Thằng/
con; liền ông/ liền bà; già/ trẻ; dỏng mái tai/ gài mái tóc; xuôi/
ngược…
Qua lời chửi trên, tôi cam đoan bà Ba thực sự không thua một
nhà sáng tạo ngôn từ nào. Hình dung trước trận đòn mồm này của bà, kẻ
xấu chỉ biết lắc đầu mà than trời cho cái sự “trót dại” của mình, chừa
nhé cái tội vu khống người khác!
Nhà văn Tô Hoài còn cho biết thêm về khả năng của bà Ba:
Đã lâu lắm bây giờ mới được nghe bà Ba chửi rủa con cà con kê,
có ngành có ngọn. Bởi vì bà tức quá. Đứa nào vô phúc dán cái giấy kia.
Nó quên tài chửi của bà rồi hay sao?Bà có thể trồng cây chuối ngược mà
chửi suốt tháng. Bà có thể chửi cho đứa nào đứa ấy và cơm vào miệng rồi
mà phải nôn tháo cả ra. Bà đi chửi từ đầu làng đến cuối làng, từ xóng
Giếng đến xóm Đình ra xóm Mới vào xóm Lẻ, khắp ngã ba, ngã tư. Đến tận
chiều xẩm khản cẩ tiếng, bà mới chịu vác mõ trở về nhà. Bà đe rằng ngày
mai bà còn chửi nữa. Bà còn chửi đến khi động đến mồ mả nhà đứa nào ấy.
Khiến nó ăn uống, ngồi đứng không yên, phải đến nhà bà mà lạy, bà mới
chịu thôi.
Quả là một khả năng phi thường khiến người ta “choáng” đến nỗi
nhà văn Tô Hoài cũng không giấu được cái nhìn chủ quan của mình : Kể bà chửi cũng hay thực.
Hiện tượng chửi của người Việt từ thực tế đời sống đến ngôn ngữ văn
học thật phong phú. Đó là một biến tấu độc đáo trong cách vận dụng ngôn
từ của người Việt. Thật không công bằng nếu quy kết hiện tượng chửi vào
hàng chuẩn mực của đời sống chính trị. Bởi tiếng chửi đã tồn tại trong
cuộc sống của người Việt như một cách thức giao tiếp độc đáo linh hoạt
trong ngôn ngữ, đồng thời là biểu hiện một phần của tính cách người
Việt: không bao giờ khoan nhượng trước cái xấu./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét