“Ma chê, cưới trách” là lời nhắc
cho các gia đình đừng để xảy ra điều gì khiến phải chê trách trong đám cưới.
Bởi người dân Việt Nam
coi đám cưới là một việc thiêng liêng, trọng đại trong đời người…
Cao Thị Thất & Nguyễn Văn Hương |
Trình tự tiến hành lễ cưới của
người Việt Nam, từ Nam chí Bắc, từ
miền ngược đến miền xuôi – tên gọi có thể khác nhau, nhưng đều thống nhất như
sau:
Sự mối manh: Đầu tiên phải có người
trung gian, đóng vai trò bắc cầu cho hai bên gia đình… Đó thường là người đứng
tuổi, có uy tín, có kinh nghiệm.
Lễ chạm ngõ
Được sự đồng ý của nhà gái, nhà
trai đem lễ sang. Đồ lễ bắt buộc phải có là trầu, cau, rượu, chè. Phải có trầu
cau mới được, vì câu chuyện trầu cau trong cổ tích Việt Nam là tiêu biểu cho tình nghĩa vợ
chồng, họ hàng ruột thịt. Không có trầu là không theo lễ.
Lễ vấn danh (ăn hỏi)
Chữ Hán gọi chữ này là lễ vấn danh
(hỏi tên tuổi, so đôi lứa). Gọi như thế thôi chứ người ta đã biết rõ rồi. Cô
gái nhà nào đã nhận lễ vấn danh coi như đã có chồng (dù chưa cưới). Cô đã phải
biết bổn phận rồi, và những nhà khác cũng phải biết, đừng lai vãng mối lái gì
nữa. Nhân dân nói một cách mộc mạc mà rất có ý vị. Đó là ngày bỏ hàng rào.
Nghĩa là con gái nhà này đã được gài, được đánh dấu rồi, xin đừng ai hỏi đến
nữa. Còn một cái tên nôm na để dịch lễ vấn danh: lễ ăn hỏi.
Sau ngày lễ ăn hỏi, phải có báo hỉ,
chia trầu. Nhà gái trích trong lễ vật nhà trai đưa đến một lá trầu, một quả
cau, một gói trà (pha đủ một ấm), một cái bánh cốm, hoặc vài hạt mứt. Tất cả
gói thành hộp hay phong bao giấy hồng, mang đến cho các gia đình họ hàng, bạn
hữu của nhà gái. Nhà trai cũng báo hỉ, nhưng không phải có lễ vật này mà chỉ
cần thiếp báo hỉ thôi. Cũng trong lễ ăn hỏi, hai họ định luôn ngày cưới.
Lễ cưới
Lễ nạp tài: Là ngày nhà trai phải
đem sính lễ sang nhà gái. Đồ sính lễ gồm trầu cau, gạo nếp, thịt lợn, quần áo
và đồ trang sức cho cô dâu. Ý nghĩa của lễ nạp tài là nhà trai góp với nhà gái
chi phí cỗ bàn, cho nhà gái và cô dâu biết đã có sẵn cho cô dâu đầy đủ. Đồ nữ
trang cho cô dâu làm vốn sau này, cô có thể yên tâm xây dựng tổ ấm mới, chứ
không đến nỗi sẽ gặp cảnh thiếu thốn.
Do khong hiểu ý nghĩa này, mà nhiều
nơi đã xảy ra nạ thách cưới. Nhà gái đòi điều kiện của cải, bù vào việc nhà
mình mất người. Rồi còn xảy ra tệ nạn sau khi cô dâu về, bà mẹ chồng đã thu lại
các của cải để bù vào việc đi vay mượn trước đó. Thách cưới đã thành hủ tục,
giờ đây đã được bỏ đi.
Lễ xin dâu
Trước giờ đón dâu nhà trai cử người
đem trầu, rượu đến xin dâu, báo đoàn đón dâu sẽ đến.
Lễ rước dâu
Đoàn rước dâu của nhà trai đi thành
từng đoàn, có cụ già cầm hương đi trước, cùng với người mang lễ vật. Nhà gái
cho mời cụ già thắp hương vái trước bàn thờ rồi cùng ra đón đoàn nhà trai vào.
Cô dâu đứng sẵn để cùng với chú rể lạy trước bàn thờ, trình với tổ tiên. Sau đó
hai người cùng bưng trầu ra mời họ hàng. Bố mẹ cô dâu tặng quà cho con gái
mình. Có gia đình cũng lúc này bày cỗ bàn cho cả họ nhà gái chung vui. Khách
nhà trai cũng được mời vào cỗ. Sau đó là cả đoàn rời nhà gái, để đưa dâu về nhà
chồng. Họ nhà gái chọn sẵn người đi theo cô gái, gọi là các cô phù dâu.
Rước râu vào nhà
Đoàn đưa dâu về đến ngõ. Lúc này,
bà mẹ chồng cầm bình vôi, tránh mặt đi một lúc, để cô dâu bước vào nhà. Hiện
tượng này được giải thích theo nhiều cách. Thường người ta cho rằng việc làm
này có ý nghĩa khắc phục những chuyện cay nghiệt giữa mẹ chồng và nàng dâu sau
này.
Lễ tơ hồng
Cả hai họ cùng ngồi ăn uống xong,
tất cả ra về, trừ người thân tín thì ở lại. Họ chờ cho cô dâu chú rể làm lễ
cúng tơ hồng. Người ta cho rằng vợ chồng lấy được nhau, là do ông Tơ bà Nguyệt
trên trời xe duyên cho. Cúng tơ hồng là để tạ ơn hai ông bà này. Lễ cúng tơ
hồng đơn giản nhưng rất thanh lịch, không có cỗ bàn nhưng có rượu và hoa quả.
Có thể cúng trong nhà, mà cũng có thể cúng dưới trời . Ông cụ già cầm hương lúc
đón dâu, hoặc ông cụ già cả nhất của họ hàng, chứng kiến buổi lễ. Lạy cụ tơ
hồng, rồi hai vợ chồng vái nhau (gọi là phu thê giao bái). Các đám cưới quý tộc
thì việc tổ chức có quy cách hơn.
Trải giường chiếu
Xong lễ tơ hồng, thì cô dâu chú rể
cùng mọi người vào phòng cô dâu. Trong lúc này trên chiếc giường cưới đã có sẵn
đôi chiếu mới úp vào nhau. Bà mẹ chồng, hoặc một bà cao tuổi khác, đông con
nhiều cháu, phúc hậu, hiền từ, sẽ trải đôi chiếu lên giường, trải cho ngay
ngắn, xếp gối màn cẩn thận.
Lễ hợp cẩn
Đây là buổi lễ kết thúc đám cưới
tại nhà trai. Trước giường có bàn bày trầu rượu và một đĩa bánh. Loại bánh này
gọi là bánh phu thê (sau này ta đọc thành bánh xu xê). Ông cụ già đứng lên rót
rượu vào chén rồi mời đôi vợ chồng cùng uống, phải cùng cạn chén, cùng ăn hết
cái bánh – chỉ co hai vợ chồng, không chia cho ai, không để thừa.
Mọi người ra ngoài, để hai vợ chồng
cùng tâm sự. Ở một số nhà khá giả, thiên về hoạt động văn hoá, thì những bạn bè
văn chương chữ nghĩa với chàng rể còn mang hoa, thắp đền sáng rực trong phòng
hợp cẩn. Họ cũng ca hát, gây tiếng động, hoặc vỗ tay, đập các khúc gỗ vào nhau.
Do đó mà sau có chữ động phòng hoa chúc.
Lễ lại mặt
Cũng gọi là ngày nhị hỉ, lễ cưới
xong, sáng hôm sau, hai vợ chồng trẻ sẽ trở về nhà gái, mang theo lễ vật để tạ
gia tiên. Lễ vật cũng có trầu, xôi, lơn. Bố mẹ vợ làm cơm để mời chàng rể và
con gái mình. Ở một số trường hợp nếu xảy ra chuyện gì mà nhà trai không bằng
lòng sau đêm hợp cẩn, thì lễ nhị hỉ lại có những chuyện không hay. Nhưng trường
hợp này rất hiếm.
Lễ cheo
Lễ cưới Việt Nam còn có một hiện tượng độc đáo,
đó là lễ cheo. Lễ cheo có thể tiến hành trước nhiều ngày, hoặc sau lễ cưới một
ngày. Lễ cheo là nhà trai phải có lễ vật hoặc kinh phí đem đến cho làng hay cho
xóm có con gái đi lấy chồng. Lễ cưới là để họ hàng công nhận, lễ cheo là để xóm
làng tiếp thu thêm thành viên mới, tế bào mới của làng. Thật ra đây cũng là thủ
tục như bây giờ chúng ta đăng ký ở Uỷ ban. Song người Việt không cho đó chỉ là
thủ tục, mà là một lễ nghi hẳn hoi. Người theo chữ nghĩa sách vở thì gọi lễ
cheo này là lễ lan nhai (nhiều người đọc ra là lễ lan giai). Lan nhai có nghĩa
là tiền nộp cheo cho làng khi nhà trai đến đón dâu ở nhà gái.
Cách thức tổ chức, trình tự tiến
hành của một đám cưới Việt Nam
ngày xưa là như vậy. Những đám cưới theo kiểu mới hiện nay, theo phong trào,
theo quan niệm mới (thật ra thì chưa thành quan điểm), ta cứ làm mà thực ra thì
chưa ưng lắm. Gần đây đời sống của ta có tươi hơn, chuyện xã giao, chuyện theo
đà cũng rầm rộ hơn, khiến cho nhiều người biết là không ổn mà vẫn cứ phải theo
những kiểu cách phô trương (có cả trục lợi).
Nhìn lại các phong tục cổ truyền
của đám cưới ngày xưa, phải thành thực nhận rằng nhiều người trong chúng ta
chưa thật tiếp cận đúng với tinh thần, ý nghĩa nên chỉ thấy phần thiếu sót:
nhiều nghi lễ phiền phức, mang tính phong kiến nặng nề; nhiều hủ tục: chuyện
thách cưới, chuyện ở rể, chuyện đăng môn hộ đối… làm giảm đi ý nghĩa của hôn
nhân, đám cưới phô trương cỗ bàn, khoe khoang y phục, hát xướng…
Thật ra người dân ta, ngày xưa có
ưa gì những đám cưới loè loẹt đâu. Nhưng một mặt khác, lại phải thấy rằng, cách
tổ chức ngày xưa quả thực có ý nghĩa sâu sắc và có những nét đẹp. Các đám cưới
mới của chúng ta ngày nay, phải xin phép để nói rằng, nhiều trường hợp đã không
thể hiện được cái đẹp, cái hay đã có.
Về ý nghĩa sâu sắc, có tính cách
triết học, có thiên về tâm linh, người ta hiểu rằng: hôn nhân là việc hệ trọng,
là thiêng liêng. Vì thế người ta thấy cần phải theo lễ. Phải gọi là lễ cưới chứ
không chỉ là đám cưới suông. Lấy vợ, lấy chồng là một việc thiêng liêng của đời
người. Lấy nhau vì tình, nhưng cũng còn vì nghĩa nữa. Nhiều cô cậu ngày nay chỉ
biết yêu nhau mà lấy nhau, để thoả mãn sự gắn bó, có lẽ không khẳng định là dài
hay ngắn.
Cưới vợ cưới chồng ở Việt Nam la
có sự chứng kiến của thần thánh tổ tiên (có tơ hồng). Đó là thần quyền. Rồi
phải có làng xóm, pháp luật công nhận (lễ nộp cheo. Đó là pháp quyền. Và trước
nhất anh chị phải yêu nhau, phải thấy hợp nhau, hợp tuổi tác. Đó là nhân quyền.
Những đám cưới có hai cô cậu biết nhau (mời bạn bè đến ăn) cũng chỉ là quan hệ
cá nhân mà thôi. Chỉ biết yêu, chứ không biết đó là thiêng liêng, nên sự ràng
buộc chỉ là mức độ.
Đám cưới Việt phải có trầu, cau mới
thể hiện được sự ràng buộc của tình nghĩa vợ chồng và linh ứng của thần linh.
“Ba đồng một mớ trầu cay – Sao anh không hỏi những ngày còn không…” là ý nghĩa
như thế.
Lễ vật đám cưới truyền thống – ở
các nhà bình dân – không có mâm cao cỗ đầy, không ai đếm món: mâm này năm trăm,
mâm kia sáu trăm, nhà các quan to thì lắm xe đưa đón. Nhưng người dân Việt Nam
biết chọn các lễ vật đẹp. Những cốm, hồng, những dây lụa chăng đường, những bài
thơ, bài hát. Thật là đẹp đẽ và cảm động. Cái đẹp của lễ cưới Việt Nam là như thế
Theo thoitrangtre.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét