Tôi
là một tòa giải tội bằng gỗ. Tôi đứng ở đây lâu
lắm rồi. Năm tháng đi qua với dòng đời đổi thay, tôi
đứng đây nhìn cuộc đời. Trải qua mấy thế hệ, những
người cùng thời với tôi đã từ giã cõi đời từ
lâu. Thế hệ này sang thế hệ khác, tôi chứng kiến những
đổi thay trong cái họ đạo này. Ðời tôi là vô vàn
những trang hồi ký.
Cuộc
gặp gỡ nào cũng là một lịch sử. Biến cố nào cũng có
ý nghĩa. Dòng chữ tôi đang viết đây là một mẩu ngắn
trong dòng thời gian đó. Chuyện hai con chuột nhắt nói với
nhau. Câu chuyện của chúng nó có liên quan về tôi.
Con
chuột cạnh bờ tường lên tiếng:
-
Kỳ này mày có khỏe không?
Con
kia trả lời:
-
Nhức đầu quá!
Chúng
tiếp tục câu chuyện. Tôi là tòa giải tội, tôi lắng nghe.
Con cạnh bờ tường nói:
-
Tao cũng nhức đầu quá.
-
Tại sao vậy?
-
Nhà tao ở, suốt đêm lúc nào cũng karao ôkê!
-
Khu chung cư của tao thì chúng ồn ào, ôi thôi là ồn ào.
Hết đám con nít khóc, lại đến người lớn cãi nhau. Chán
mớ đời!
-
Thế trước đó mày ở đâu?
-
Tao đổi nhà bao nhiêu lần rồi, chỗ nào cũng chỉ được
vài hôm.
Con
chuột phía bên kia cúi xuống gặm chân. Miếng báo cũ nó tha
về đã trải gọn gàng. Nó thở dài rồi lại tiếp tục câu
chuyện:
-
Cuộc sống hôm nay phức tạp quá, suốt ngày ồn ào. Người
lớn cũng vậy, con nít cũng thế, chúng không bao giờ biết
thinh lặng. Tao tìm hết nhà này đến nhà kia, chỗ nào cũng
rứa. Khó ngủ quá. Tao từng ở ngoài chợ, rồi kho hàng,
nhà chùa, rồi nhà thờ, bây giờ thì ở gầm cái tòa
giải tội này.
-
Mày nghĩ chúng ta sẽ được yên thân nơi này không hay cũng
bị mất ngủ?
Tôi
chưa viết về sự cố vì sao hai con chuột nhắt này lại gặp
nhau ở đây. Bắt đầu là thế này. Ngày xửa ngày xưa ở
cái tòa giải tội này, tôi lúc nào cũng bận rộn đón
người qua lại. Sáng, chiều, có một cha già, chẳng mấy khi
không ngồi ở đây đón tín đồ. Lúc ấy khác bây giờ
lắm, nhà thờ vang câu kinh, người lớn, con nít, ôi thôi
đủ là hát xướng, vui ơi là vui! Hồi ấy người ta sốt
sắng đạo đức, chiều kinh tối, sáng thánh lễ, lúc nào
cũng có người ra vào tòa giải tội. Thế rồi từ từ
lòng người thay đổi, cha già chết đi. Những người cùng
thế hệ tôi cũng vậy. Sau cùng, tôi là chiếc tòa giải tội
vắng khách. Mạng nhện giăng đầy. Bụi bắt đầu mờ. Chả
thấy ai quét bụi nữa. Tôi là tòa giải tội đứng buồn hiu
như một chợ chiều không còn người. Nghĩ mà nhớ những
ngày tháng xa xưa. Tôi chả quên được dĩ vãng nhiều kỷ
niệm ấy.
Rồi
một con chuột già đi ngang qua, thấy yên tĩnh lạ thường, nó
dừng lại đôi ngày rồi khám phá ra cái không gian chẳng
bóng người qua lại này. Sau cùng, nó vô cùng thích thú
chọn nơi đây làm quê hương dưỡng già, ngủ ngon giấc. Yên
tĩnh lắm. Con chuột ấy thế mà tinh khôn. Nó chui vào đây
ở thảnh thơi cho đến ngày biết sắp qua đời, nó nhường
lại khu vực êm ả cho hai con chuột nhắt.
Hai
con chuột nhắt nói chuyện lúc nãy mới dọn vào đây đấy.
Chúng còn ngỡ ngàng lắm. Thôi, bây giờ tôi kể tiếp về
hai con chuột nhắt nói với nhau:
-
Ừa, tao nghĩ nơi đây sẽ yên tĩnh và chúng ta sẽ ngủ ngon!
-
Sẽ không bị bước chân người quấy phá như ở ngoài
đời!
Hai
con chuột nhắt cười đùa khoái chí. Chúng đố nhau:
-
Ðố mày chúng ta sẽ được yên tĩnh bao lâu? Một tuần? Một
tháng? Hay một năm thì lại có người vào đây?
Con
chuột nhỏ hơn trầm ngâm một chút rồi gục gặc cái đầu.
Nó không trả lời mà đối lại con kia bằng câu đố khác:
-
Ðố mày ai là kẻ đầu tiên vào đây phá giấc ngủ chúng
ta? Người hay lại là gã mèo già tìm nơi yên để ngủ?
*
* *
Ngày...
tháng....năm....
Ðã
lâu không có ai vào đây, nhưng một mùa Chay nọ, câu chuyện
xảy ra.
Người
thanh niên ngồi dưới cuối nhà thờ lâu lắm. Người ấy
đến đây mấy lần, chỉ ngồi trong nhà thờ thôi, không vào
đây. Tôi là tòa giải tội lâu ngày không có người vào.
Tôi cầu nguyện, tôi xin cho có một người vào đây với
Chúa đi. Cây thánh giá treo trên tường cũng bụi bám, vắng
thật vắng. Tôi cầu nguyện nhiều, và sau cùng, tôi thấy anh
ta từ từ bỏ ghế ngồi đi lên. Lòng tôi hồi hộp cầu
nguyện thêm, tôi xin cho anh đừng bỏ cuộc. Rồi, người thanh
niên đến gần, ngó vào tòa giải tội, ngại ngùng. Tôi lại
lấy hết tâm hồn cầu nguyện cho anh. Dáng đi của người thanh
niên vất vả, có ai kéo anh lại? Tôi cầu nguyện thêm, cầu
nguyện thêm. Sau cùng, người thanh niên giơ tay đẩy nhẹ cánh
cửa, bước vào.
Tôi
là tòa giải tội ở đây qua bao nhiêu thế hệ, gần trăm
năm nay rồi còn gì, từ thế hệ cha ông của những người
trong họ đạo này cơ mà. Như tôi viết ở trên, tôi chứng
kiến rất nhiều thăng trầm của cuộc đời. Nhất là nhìn
thấy không biết bao nhiêu biến cố lạ lùng đã xảy ra. Trong
góc nhỏ nhà thờ này mà chứa không biết bao nhiêu phép
lạ. Vì những phép lạ ấy rất hạnh phúc, rất riêng tư nên
người ta muốn giữ kỷ niệm đó cho riêng mình, ít người
nói ra.
Người
thanh niên nói với Chúa:
-
Lạy Chúa, mỗi lần đến với Chúa qua tòa giải tội này là
đời con được tái sinh, con hạnh phúc hơn, yêu đời hơn,
sao con vẫn cứ ngại ngùng hả Chúa?
Trên
bóng thánh giá, Chúa nhìn người thanh niên trả lời:
-
Con ạ, ma quỷ rất sợ tòa giải tội. Nơi đây là trận
chiến thảm bại nhất của nó. Con có kinh nghiệm mỗi lần
đến với Cha rồi ra về, lòng con vui hơn, cuộc đời nhẹ
thênh thang, nhưng con vẫn ngại vì ma quỷ không muốn buông tha
một người đang trên đường thuộc về nó. Lúc nào con
ngại tòa giải tội là lúc ma quỷ gần con nhất. Nó đang
giữ chân con lại. Chính lúc đó là lúc con lại cần tòa
giải tội hơn lúc nào hết.
-
Thưa Chúa, Chúa biết mọi tội con rồi sao con lại còn phải
đến đây, sao Chúa không tha cho con đi?
-
Con rất yêu quý của Cha, con hiểu lầm tình yêu của Cha trong
tòa giải tội này rồi. Lòng của Cha luôn bao dung. Con không
nhớ trước khi người con hoang đàng trong Phúc Âm trở về
thì cha nó đã mong chờ nó rồi sao? Mong nó về là tha thứ
hết rồi. Cha nó có hỏi tội nó đâu? Trước khi con đến
đây, ngay khi con phạm tội, hôm đó lòng Cha buồn khôn tả.
Con phạm tội xong, con bước đi u buồn lững thững, con giấu
diếm Cha, con giấu diếm người chung quanh. Cha thấy thương con
quá đỗi. Cha tha cho con ngay hôm đó rồi.
Người
thanh niên im lặng lắng nghe. Anh trầm ngâm suy nghĩ. Một phút
tĩnh mịch trôi qua. Lòng nhà thờ có con chim sẻ kêu chim chíp.
Chúa thấy người thanh niên im lặng, Ngài nói tiếp:
-
Cha chán tội, Cha không muốn nghĩ đến tội. Cha chỉ nghĩ đến
tình thương và sự đau khổ. Cha thấy con lầm lũi đi, con
không dám nhìn trời, con giấu diếm Cha. Con rước lễ mà
lòng con chán ngán. Cha biết con đau khổ. Cha nghĩ đến khổ đau
trong con. Con ạ, con là con của Cha.
Chúa
mới nói tới đó thì người thanh niên cúi xuống tay ghế
quỳ chảy nước mắt. Con chim sẻ bay ngơ ngác với tiếng kêu
nhiêm nhiếp. Trong dòng nước mắt, người thanh niên cố nói
như muốn trách Chúa thêm:
-
Thế sao con lại phải đến đây?
-
Con yêu quý, như con thấy, chỉ khi nào người con hoang đàng
trở về nhà thì nó mới có ăn. Nếu không về, nó chết
đói bên bầy heo. Cho dù người cha tha lâu rồi, nhưng không
về nó vẫn chết vì đói. Sự tha thứ đã được ban ra,
nhưng để lãnh nhận con phải giơ tay. Nhà cha có cơm gạo nhưng
con sẽ đói nếu không ăn. Con hiểu ý của Cha không?
Cũng
như chiều nay, khi con ngồi trầm ngâm trong nhà thờ, Cha thấy
con, Cha thấy rõ con. Cha tha cho con lâu rồi. Cha tha cho con ngay khi
con bước đi buồn bã vì tội trong con. Cha thương và Cha tha ngay.
Trong
tiếng xót xa, người thanh niên hỏi Chúa:
-
Cha tha mà sao lòng con cứ bối rối hoang vu?
-
Con ạ, con không thể cảm nghiệm được tình thương của Cha cho
đến khi con giơ tay lãnh nhận. Huyền diệu của tình yêu là
chỉ khi nào người kia lãnh nhận thì tình yêu ấy mới thật
sự thành tình yêu. Sự cao cả của tình yêu là tự do nên
tình yêu không bao giờ đến từ một chiều. Khác biệt huyền
diệu của tình yêu và sự thù ghét là sự tự do ấy. Khi
thù ghét, người ta dùng bạo lực bắt người kia đau khổ.
Tình yêu thì không, phải có người nhận tình yêu mới là
tình yêu. Tình yêu cho đi mà không người nhận, tình yêu
lại trở về với người đã trao ban. Người con hoang đàng
không trở về sẽ không cảm nghiệm được sự tha thứ,
không cảm nghiệm được tình thương của cha. Cho dù người
cha có đẩy tình thương và sự tha thứ đi tìm kiếm nó,
cũng sẽ không gặp nó.
Người
thanh niên lắng nghe, quỳ im lặng. Tôi là tòa giải tội. Mỗi
lần xảy ra như thế, lòng tôi hạnh phúc xót xa. Trong tôi có
vui lẫn bùi ngùi. Trong xót xa có cái tiếc nuối, có thương
tội nghiệp, có thật thà. Tôi mong có người đến với tòa
giải tội là thế. Nơi ấy giữa Chúa và người ta gặp nhau
cách kỳ diệu nhiệm mầu. Rồi người ta ra về với một
trời mới, đất mới. Cỏ cây xanh tươi. Nắng chan hòa ấm
cúng trong lòng người. Cứ mỗi lần chứng kiến như thế,
đời tôi cũng hạnh phúc vô cùng. Vì thế, tôi cứ muốn
làm tòa giải tội ở đây, dù cả tháng chỉ có vài
người tới, tôi vẫn cứ muốn ở đây. Tôi lắng nghe tiếp
Chúa và người thanh niên đang nói chuyện:
-
Con đến tòa giải tội không phải tìm sự tha thứ mà để
cảm nghiệm sự tha thứ. Cũng như người con hoang đàng,
không phải về để cha tha, mà để cảm nghiệm sự tha thứ
và được sống.
Ngày
con phạm tội, con ơi, con bước đi u buồn, con không dám nhìn
Cha. Trên thập giá, Cha nhìn xuống tội nghiệp con. Về phần Cha,
Cha luôn tha thứ cho con. Cha đẩy sự tha thứ đi kiếm tìm con.
Nhưng để cảm nghiệm tình yêu ấy vào trong hồn con, lại tùy
ở con có về để lãnh nhận hay không.
Con
yêu dấu, khi con đến tòa giải tội giơ tay lãnh nhận, tình
yêu là ơn cứu độ trên bàn tay mang dấu đinh ở cây thánh
giá này đổ xuống tay con.
Cha
quý ơn sủng của Cha vì bàn tay Cha rất đau, nên khi cho ai ơn
sủng ấy Cha nhớ người đó mãi. Con có thể quên ngày hôm
nay, cũng như con đã quên những lần xưng tội trước vì khi
lãnh nhận con chỉ giơ tay. Tay con không đau như tay Cha. Còn Cha,
Cha không thể quên con vì tay Cha đã rất đau đớn với ân
sủng này.
Con
ơi, khi cho người nào ân sủng ấy, Cha nhớ người đó.
Con
chim sẻ lại bay. Nó ngơ ngác như muốn tìm một đường bay
nào đó mà không rõ. Tiếng kêu chim chíp vang trong lòng nhà
thờ vắng. Người thanh niên vẫn cúi đầu, nói với Chúa:
-
Lạy Cha, xin thương xót con. Xin cho con cảm nghiệm được tình
thương của Cha.
Chúa
nhìn người thanh niên, chậm rãi nâng bàn tay rất đau đớn,
ôm người thanh niên. Người thanh niên cúi đầu lãnh nhận.
Tôi thấy mắt người thanh niên rướm lệ. Còn tôi, chiếc
tòa giải tội gỗ, tôi lại chứng kiến một trời mới và
một mùa xuân thiêng liêng mới đang nở trong lòng nhà thờ.
Cô Đơn Và Sự Tự Do - Nguyễn Tầm Thường
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét