Chữ Tâm là một
phạm trù cơ bản trong đạo lý truyền thống của dân tộc. Nếu như não được coi là
xuất phát điểm của trí tuệ (Trí) thì trái tim được coi là trung khu của tình
cảm, tâm lý.
Theo cách viết chữ
Hán, chữ Tâm là chữ tượng hình, viết kiểu tiểu triện có hình trái tim, còn
viết kiểu khải thư thì ở trên có ba dấu tượng trưng ba cái cuống, ở dưới là túi
chứa máu. Chữ này diễn biến qua các cách viết như sau:
Chữ Tâm là gốc của
đạo đức, đạo lí làm người, điều này được thể hiện rất rõ trong các kết hợp ngôn
ngữ phổ biến: tâm đức, nhân tâm, tâm huyết, nhiệt tâm, thành tâm, thiện tâm,
công tâm, nhất tâm, hằng tâm…
Người Việt cũng
nói: tà tâm, lãnh tâm, ác tâm, nhị tâm… để chỉ những kẻ độc ác, vô cảm, phản
trắc. Xã hội nào cũng đề cao chữ Tâm, đề cao đạo đức, bởi vì chữ Tâm, đạo đức
là gốc của sự hài hoà, vững bền, phát triển. Những danh nhân được tôn vinh đều
là những người có tâm trong sáng, cao cả.
Khi nói về chữ
Tâm, nhiều người thường tách bạch “Tâm” và “Trí”. Thực ra trong mỗi
người, Tâm và Trí là một sự thống nhất hài hoà không thể tách rời “tuy hai mà
một”, đều là hoạt động tâm lí và có vai trò điều khiển hành động. Nếu như có
mối quan hệ “Tâm-Trí” thì Trí tuệ là gốc chứ không phải Tâm là gốc như nhiều
người ngộ nhận. Nếu người ta không nhìn thấy nhau, không hiểu nhau thì làm sao
yêu nhau được? Nhận xét một người “có trí tuệ nhưng không có tâm” rõ ràng không
thoả đáng, phải nói là người đó có vấn đề về trí tuệ thì mới đúng: tất cả những
ai không có Tâm đều không có Trí. Đạo Phật có khái niệm “giác ngộ” và gốc của
giác ngộ là trí tuệ: những kẻ tàn ác, vô cảm, bất nhân dù tài giỏi đến mấy cũng
là bất trí, u mê. Đó là minh triết của nhân loại đã được thừa nhận.
Một ngộ nhận nữa
là khi nói về chữ Tâm, người ta thường nhấn mạnh ở khía cạnh “thương”, “yêu
thương”, “cảm thương” mà coi nhẹ, bỏ qua yếu tố “ghét”, “căm ghét”, “phẫn
nộ”.... Người không ghét cái xấu, không căm thù cái bất nhân thì sao có thể gọi
là có Tâm được? Một nhà thơ nổi tiếng đã viết: “Bởi chưng hay ghét cũng là hay
thương”.
Tâm của con người càng quan trọng hơn vì nó
nói lên nhân cách của một con người:-Tâm lệch lạc thì cuộc sống nghiêng ngã đảo điên.
- Tâm gian dối thì cuộc sống bất an.
- Tâm ghen ghét thì cuộc sống hận thù.
- Tâm đố kỵ thì cuộc sống mất vui.
- Tâm tham lam thì cuộc sống dối trá…
Cho nên, ta không những đem tâm của mình đặt ngay trên ngực để yêu thương, mà còn:
- Đặt trên tay để giúp đỡ người khác.
- Đặt trên mắt để nhìn thấy nổi khổ của tha nhân.
- Đặt trên chân để mau mắn chạy đến với người cùng khổ.
- Đặt trên miệng để nói lời an ủi với người bất hạnh.
- Đặt trên tai để biết nghe lời than trách, góp ý của người khác.
- Đặt trên vai để biết chịu trách nhiệm và chia sẻ trách nhiệm với anh em chị em.
Trước sự suy thoái
về đạo đức xã hội, nhiều người cho rằng là chữ Tâm “có vấn đề”, nhiều
người đã đưa ra những giải pháp khác nhau. Việc đưa nội dung giáo dục chữ Tâm
vào chương trình giáo dục, rồi cấp bằng chữ Tâm… xem ra chỉ là ảo tưởng.
Nhà trường chỉ là
một phần của xã hội, việc học ở trường chỉ trang bị được những kiến
thức cơ bản có tính định hướng, chủ yếu là người ta học và trưởng
thành từ “trường đời”. Sự đánh giá về hạnh kiểm đối với học sinh được phản ánh
thông qua những nhận xét trong học bạ chỉ là một kết quả từ góc nhìn ở các mối
quan hệ trong nhà trường, nên chưa đầy đủ và chính xác.
Một nhà triết học
nổi tiếng đã viết: “Bản chất của con người là sự tổng hoà các mối quan hệ xã
hội”. Thước đo đạo đức, chữ Tâm của con người phải xét từ mọi mối quan hệ xã
hội mà con người tham gia. Vì vậy, muốn đánh giá, điều chỉnh về mặt đạo đức của
con người, phải bắt nguồn từ các mối quan hệ xã hội, qui luật của cuộc sống.
(Trích Lê Trung Ngân)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét