Thứ Năm, 26 tháng 9, 2013

Hiệp Thông Trong Bí Tích Thánh Thể



Trung tâm lịch sử cứu độ là mầu nhiệm Chết và Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa đã hoàn tất chương trình Cứu Độ để giải thoát dân Ngài trong yêu thương và hiệp thông. Các biến c Giáo hội cử hành trong phụng vụ được hiện tại hoá và qua đó Chúa Giêsu hiện diện với chúng ta qua các bí tích. Đặc biệt, Thánh Thể bí tích chiếm vị trí quan trọng trong đời sống của người kitô hữu.
Sống trọn vẹn bí tích Thánh Thể chúng ta đưc Hiệp Thông với Thiên Chúa và anh ch em đồng loại trong của ăn thiêng liêng, đó là Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô. Hiến chế Lumen Gentium đã khẳng định rằng, bí tích Thánh Thể là “nguồn mạch và chóp đỉnh của toàn bộ cuộc sống Kitô giáo[1]. Hơn nữa, dựa vào giáo huấn của Công Đồng Vatican II, Thánh Bộ Phụng Tự cũng nêu lên rằng bí tích Thánh Thể biểu thị và thực hiện mầu nhiệm Hiệp Thông của Giáo hội:
Thánh thể biểu thị và thực hiện sự Hiệp Thông vào sự sông của Thiên Chúa và sự hiệp nhất của dân Chúa, nhờ hai điều này mà Giáo Hội là Giáo Hội. Nơi Thánh Thể ta tìm thấy đỉnh cao hành động của Thiên Chúa, qua đó Ngài Thánh hoá thế giới trong Chúa Kitô, và đỉnh cao hành động phụng tự mà trong Chúa Thánh Thần con người dâng lên Chúa Kitô và qua Ngài dâng lên Chúa Cha[2].

Nhận thức tầm mức quan trọng của sự Hiệp Thông trong bí tích Thánh Thể nơi Giáo Hội, chúng ta cùng tìm hiểu nguồn gốc bí tích Thánh Thể và ý nghĩa hiệp thông.

1/ Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể

Các nhà thần học đã dựa vào Thánh Kinh để khẳng định Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể. Trong Tin Mừng Nhất Lãm[3] và trong thư của Thánh Phaolô[4], các tác giả đã tường thuật việc Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể, riêng thánh Gioan thì kể lại các lời của Chúa Giêsu chuẩn bị cho việc lập Bí tích này tại hội đường Caphamaum[5]. Sách GLHTCG dựa theo quan điểm của Tin Mừng Nhất Lãm để nhấn mạnh nơi chốn Chúa Giêsu lập bí tích này, đồng thời nhấn mạnh tới tiệc ly là bữa tiệc cử hành lễ vượt qua trước ngày đại lễ của người Do Thái. Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể vào ngày chuẩn bị lễ Vượt Qua. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt mới trong công trình cứu độ của Thiên Chúa và đem lại ý nghĩa cuối cùng cho lễ Vượt Qua của người Do Thái[6]. Khi cử hành bí tích Thánh Thể là Giáo Hội đang hiện tại hoá mầu nhiệm Chết và Phục Sinh của Chúa Kitô, và nhờ đó chúng ta được hiệp thông và được cứu độ trong Chúa Kitô.
Về Thánh Truyền, các nguồn tài liệu cho thấy một lập trường kiên vững của các thế hệ thời các Tông đồ tin rằng Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể và chứng thực là nhiệm tích ấy đã đưc diễn lại một cách liên tục sau đó[7]. Ngoài những chứng từ trong Thánh Kinh, nguồn tài liệu đáng tin cậy mà Giáo hội ngày nay trân trọng, đó là thế giá của các Giáo Phụ thời sơ khai. Trong các vị ấy, chúng ta cần lưu tâm tới đến các tác giả Didachè (cuối thế kỷ I), thánh Ignace d’Antioche, thánh Justin, thánh Iréné vào đầu thế kỷ thứ II. Trong những nguồn tài liệu của các ngài đều cho ta cái nhìn nhiệm cục và việc cao trọng là Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể.
Qua những diễn tiến trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu cùng dùng bữa tối với các môn đệ trong đêm lễ vượt Qua của người Do Thái. Ngài đã chấm dứt lễ vượt Qua cũ, khai mở cuộc Vượt Qua mới, chính là cuộc vượt Qua từ cái chết đến Phục Sinh vinh hiển của Ngài. Ngài mun tiệc vượt qua này đưc tái diễn và tồn tại cho đến ngày Ngài quang lâm, nên mới truyền cho các môn đệ rằng: “các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy (Lc 22,19tt). Quả thật, đây là lệnh Chúa Giêsu truyền cho các Tông Đồ phải thực hiện và truyền lại cho các thế hệ. Nhờ đó mọi thế hệ đều đưc sống nhờ của ăn thiêng liêng mà Ngài để lại nuôi sống linh hồn chúng ta cho tới khi Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang bất diệt. Những cử chỉ như là bẻ bánh, rót rượu, rửa chân vv... những việc làm rất gần với đời thường. Chính nhờ những việc làm ấy của Chúa Giêsu đã có sức biến đổi cuộc sống chúng ta. Vì bí tích chỉ thực sự là bí tích, khi bí tích ấy biến đổi cuộc đời của nguời tham dự trong tương quan hiệp thông với Chúa và với tha nhân. Tham dự bí tích Thánh Thể mà không biết chia sẻ cuộc sống cho tha nhân như Chúa Giêsu đã chia sẻ hết cho ta, thì ta vẫn chưa tham dự, chưa sống bí tích đó[8].

2/ Bữa Tiệc Tình Yêu - Sự Hiệp Thông

Bí tích Thánh Thể là trung tâm điểm để từ đó mọi mối liên hệ khác được hình thành nhờ các thành phần Hiệp Thông với nhau. Vì yêu thương nhân loại mà Chúa Giêsu Kitô đã xuống thế làm người và tạo nên mối tương quan mật thiết giữa mọi người với nhau. Đặc biệt qua bí tích Thánh Thể sỢi dây yêu thương đưc thể hiện cách rõ nét hơn nhờ có sự Hiệp Thông với nhau.
Chính vì thế Đức Giáo Hoàng Bênêdictô XVI trong bài nói chuyện với các đức Hồng Y sau thánh lễ buổi sáng ngày 20-4-2005 đã nhấn mạnh:

“Bí tích Thánh Thể làm cho Chúa Giêsu Phục Sinh luôn hiện diện và ban tặng chính mình cho chúng ta, trong khi mời gọi chúng ta đến tham dự Bàn Tiệc Mình và Máu Thánh Ngài. Sự kết hiệp trọn vẹn với Chúa Giêsu Thánh Thể làm nảy sinh ra đặc tính của đời sông Giáo Hội: đây là sự Hiệp Thông giữa các tín hữu, là sự quyết tâm rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng, là lòng nhiệt thành trong các công việc Bác Ái đốỉ với mọi người, nhất là những người nghèo khó và bé mọn.”[9].

Sợi dây hiệp thông tình yêu Thánh Thể đã liên kết Chúa Kitô với mỗi người chúng ta, và giữa chúng ta với nhau. Hơn nữa, bí tích Thánh Thể, là bí tích tình yêu và hiệp nhất cũng mời gọi và nhấn mạnh đến bổn phận thờ phượng Chúa trong ngày Chúa Nhật, ngày kỷ niệm Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh. Do đó Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã nhấn mạnh rằng:

Sự cổ động đặc biệt hữu hiệu cho sự Hiệp nhất, đặc điểm của bí tích Thánh Thể, là một trong những lý do của tầm quan trọng thánh lễ Chúa Nhật, về phương diện này và vì những lý do, đã khiến cho việc đi lễ ngày Chúa nhật trở nên cần thiết cho đời sông Giáo Hội và của các tín hữu, tôi đã bàn rất nhiều trong Tông Thư “Ngày của Chúa” (Dies Domini) về sự Thánh Hoá ngày Chúa Nhật[10].

Khi đề cập đến tầm quan trọng của bí tích Thánh Thể, thánh Phaolô đã viết cho tín hữu Côrintô rằng: Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Ki-tô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể(1 Cr 10,16-17).
Mỗi khi chúng ta tham dự thánh lễ, lời Chủ Tế đọc trong Kinh Nguyện Thánh Thể III đã nhắc cho mỗi người ý thức rằng: ''Khi chúng con được Mình và Máu Con Cha nuôi dưỡng và được tràn đầy Thánh Thần của Ngài, xin cho chúng con được trở nên cùng một thân thể và một tinh thần trong Chúa Kitô”[11]. Sự hiệp nhất đặc biệt đưc biểu lộ khi chúng ta cùng đứng lên đồng thời cùng lặp lại lời Chúa Giêsu đã dạy rằng: “Lạỵ Cha Chúng Con ở Trên Trời...[12], sau đó mọi người cùng chúc bình an cho nhau, biểu lộ sự hòa hp yêu thương trước khi cùng chung nhau chia sẻ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Người kitô hữu đã sống và thực hiện lời dạy của Chúa Giêsu để cùng hiệp thông, và biểu lộ tình yêu qua bí tích Thánh Thể mà cụ thể hơn là trong thánh lễ. Điều này cần được kéo dài và mang vào đời sống của mình nơi bổn phận đời thường của mỗi người. Có làm được như thế thì sự hiện diện của Chúa Kitô qua bí tích Thánh Thể mới có ý nghĩa thật sự cho đời sống của người kitô hữu.

3/ Cử hành là hiệp thông

Bí tích Thánh Thể là bí tích của sự hiệp thông. Một mặt, nó diễn tả chiều kích hiệp thông vô hình, chiều kích này nối kết con người với Chúa Cha và con người với nhau trong Đức Giêsu qua tác động của Chúa Thánh Thần. Sự hiệp thông vô hình đòi hỏi đời sống ân sủng và việc thực hành những nhân đức tin, cậy, mến. Trong chiều kích này, sách Giáo Lý Công Giáo đã xác định lại một cách đúng đắn rằng: “Ai biết mình đang mắc tội trọng, phải lãnh nhận bí tích Hoà giải trước khi đến rước lễ”[13]. Và, Đức Gioan Phaolô II, trong thông điệp Ecclesia De Eucharistia cũng nhắc lại điểm căn bản đó:

Tôi ước muốn nói lại rằng quy luật này vẫn còn và sẽ còn giá trị mãi trong Giáo hội, quy luật mà Công đồng Trento đã áp dụng cụ thể lời khuyến cáo nghiêm khắc của tông đồ Phaolô khi khẳng định rằng, để có thể rước lễ cách xứng đáng “nếu ai biết mình đang ở trong tình trạng tội trọng, thì phải đi xưng thú tội mình trước đã”[14] (1Cr 11,28).

Mặt khác, trong chiều kích hữu hình, Bí tích Thánh Thể đòi hỏi sự hiệp thông trong giáo huấn của các Tông đồ, trong các bí tích và trong phẩm trật. Chỉ trong bối cảnh này, việc cử hành Thánh Thể mới hợp pháp và sự tham dự đích thực vào bí tích này. Công đồng Vatican II nói đến sự hiệp thông hữu hình cách trọn vẹn như sau:
Những người được gia nhập hoàn toàn vào cộng đoàn Giáo hội là những ai lãnh nhận Thánh Thần của Đức Kitô, chấp nhận trọn vẹn tổ chức và tất cả những phương thế cứu rỗi đã được Giáo hội thiết lập, và nhờ những mối dây liên hệ do việc tuyên xưng đức tin, các bí tích, việc cai quản và sự hiệp thông của Giáo hội, họ liên kết với Đức Kitô trong tổ chức hữu hình mà Người điều khiển nhờ Đức Giáo Hoàng và các Giám mục[15].
Quả thật, cử hành Thánh Thể là cử hành mầu nhiệm hiệp thông. Sự hiệp thông ấy luôn luôn mang hai chiều kích, chiều dọc và chiều ngang, không tách biệt nhau. Bởi vì, “Ở đâu mất sự hiệp thông với Chúa, nghĩa là hiệp thống với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, thì nguồn gốc và nguồn mạch cho sự hiệp thông của chúng ta với người khác cũng tiêu tan. Và ở đâu chúng ta không sống hiệp thông với nhau, thì sự hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi cũng mất sinh khí và vô thực.”[16]
Do đó, khi đón nhận Thánh Thể, có một sự hiệp thông sâu xa giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với nhau, vì đây không phải là những chi thể cá biệt nhưng là những chi thể trong cùng một thân thể thống nhất của Giáo hội mà Đức Giêsu là Đầu: “Bánh và rượu tạo nên mối hiệp thông với Đấng vừa là Thiên Chúa, vừa là con người đã được hiến tế vì chúng ta, và mối hiệp thông đó khai triển ra sẽ kết thành niềm thông hiệp giữa người với người.”[17] Và, cho nên “Ai sống trong mối thống nhất của thân thể Đức Kitô, thì kẻ đó là một chi thể trong các chi thể của thân thể Người, và bí tích thân thể của Người thường được các tín hữu lãnh nhận khi họ rước lễ nơi bàn thánh.”[18]

4/ Hiện Diện - Mầu Nhiệm Hiệp Thông

Khi tìm hiểu mầu nhiệm của sự hiện diện, chúng ta biết rằng bí tích Thánh Thể là bí tích Hiệp Thông tuyệt hảo. Thánh lễ sự Hiệp Thông giữa Chúa Giêsu Kitô với toàn thể nhân loại từ con người đến mọi loài thọ tạo. Chỉ có một lễ hy sinh vượt qua duy nhất của Chúa Kitô, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần mới có thể hiện tại hoá của lễ hy sinh ấy cho toàn thể cộng đoàn. Quả thật, mỗi bí tích đều giúp chúng ta hiện diện và tham dự vào ơn cứu độ do Chúa Giêsu mang lại. Đối với bí tích Thánh Thể thì chúng ta đưc Hiệp Thông với Chúa Giêsu cách đặc biệt hơn. Chúa Kitô hiện diện với Hội Thánh một cách sinh động trong hình bánh và rưu để làm của ăn nuôi sng linh hồn con người. Cho nên, việc rước Mình Máu Thánh Chúa Kitô là của ăn trong bữa tiệc, nhờ đó chúng ta có thể Hiệp Thông và hiện diện với Giáo Hội một cách đặc biệt. Chính vì thế mà ta gọi thánh lễ là bí tích Hiệp Thông tuyệt hảo trong sự hiện diện của Chúa Kitô và mọi người. Khi đề cập đến sự hiện diện, Công đồng Vatican II đã diễn tả những cách thức khác nhau mà Chúa Giêsu đã sử dụng để hiện diện thật sự trong Giáo hội[19]. Phụng vụ của Giáo hội giúp ta hiểu được ý nghĩa của sự hiện diện thật sự mà Chúa Giêsu muốn dùng để đồng hành với Giáo hội trên đường lữ thứ trần gian. Và bí tích Thánh Thể thật sự diễn tả sự hiện diện của Ngài với Giáo hội. Mọi người có được điều kiện gần gũi với Ngài một cách dễ dàng. Mỗi lần rước lễ là mỗi lần chúng ta được Chúa hiện diện và đồng hành với chúng ta trong đời sống. Không có một cách thức nào hiện diện một cách hoàn hảo hơn bí tích Thánh Thể, như thánh Tôma đã nói: Thánh Thể là “sự hoàn hảo của đời sống thiêng liêng và là cứu cánh của tất cả các bí tích khác phải hướng về.[20]

Như thế, sự hiện diện của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể là điều cốt yếu của phụng vụ Giáo hội. Sự hiện diện này đề cập đến niềm tin và sự đáp trả của người tín hữu một cách sâu xa hơn. Chúa Kitô thật sự đến ở giữa chúng ta và tạo nên mối liên hệ sống động trong Thánh Thể. Sự hiệp thông giữa Ngài với chúng ta và chúng ta với nhau được liên tục nhờ sự tái hiện của bí tích Thánh Thể. Sự hiện diện của Chúa Giêsu là thể hiện tình yêu thương của Thiên Chúa để con người cảm nhận được tình yêu đó và đáp trả trong cuộc sống hàng ngày. Kết hiệp với Thánh Thể giúp tín hữu có được tình hiệp thông với Chúa và với Giáo hội. Thánh Thể liên kết mọi người tín hữu cách trọn vẹn trong thân hình mầu nhiệm Chúa Kitô và từ đó, mỗi người múc lấy ân sủng thánh hóa và sức sống cứu độ.

NVT.

[1] LG, số 11.
[2] Eucharisticum Mysterium, số 59.
[3] Xc. Mt 26,17-29; Mc 14,12-25; Lc 22,7-22.
[4] Xc. 1 Cr 11,23-26.
[5] Xc. Ga 6.
[6] Xc. GLHTCG, số 1340.
[7] Fr. Joachim Nguyễn Văn Liêm, OP, Giải Thích Thần Học Mầu nhiệm Thánh Thể, lưu hành nội bộ, 1996, tr.45.
[8] Xc. Theodule Rey – Mermet, CSsR, người dịch: Lm. Đa minh Nguyễn Đức Thông, CSsR, Sng Đức Tin Trong Các Bí Tích, tr.124.
[9] http://www.kinhthanhvn.org/viewItem.jhtml?itemId=1619.
[10] http://www.nguoitinhuu.com/chiase/linhtinh/bitichtinhyeuhiepnhat.html.
[11] Sách Lễ Rôma, Kinh Tạ ơn III, tr. 495.
[12] sách Lễ Rôma, Nghi Thức Hiệp Lễ, tr. 506.
[13] GLHTCG, số 1385.
[14] Ecclesia de Eucharistica, số 36.
[15] LG, số 14.
[16] Sacramentum Caritatis, số 76.
[17] Bearbeitet von Gunter Koch, Bí Tích Học Qua Các Tác Giả, (Verglag Styria, Graz. Wien, Kohn, 1991), tr.393.
[18] Ibid., tr.379.
[19] Xc. LG, số 48.
[20] ST. III, 73,3.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét