Giáo hội thời
kỳ đầu, có thể nói là phải đương đầu với muôn vàn khó khăn trước các lạc thuyết
và tà thuyết. Giáo hội phải có thái độ để bảo vệ đoàn chiên. Giáo dân đoàn kết
chung quanh chủ chăn của mình để bảo vệ những luồng tư tưởng tấn công từ bên
ngoài và ngay trong nội bộ Giáo hội. Do đó, trong giới trí thức Kitô giáo, xuất
hiện những nhà hộ giáo, họ có sứ mạng bảo vệ đức tin. Các ngài là vị có đời
sống thánh thiện, đạo lý chính thống và lỗi lạc, đã có công xây đắp nền móng
Giáo hội. Các ngài là những bậc kỳ cựu đã sống ở những thế kỷ đầu của Giáo hội.
Các giáo phụ hộ giáo đã dùng tài
đức của mình để đả phá những vu cáo tai hại, vạch rõ những thành kiến sai lầm,
và nhất là bênh vực Giáo hội trước những cuộc bách hại của triều đình. Họ trình
lên những kiến nghị có tính cách hộ giáo, nêu cao tinh thần thuần túy siêu
việt, cao quý của đạo Chúa Kitô so sánh với các đạo khác, đồng thời đưa ra
những gương sáng đời sống người Kitô hữu, nhấn mạnh quan điểm bác ái. Họ viết
ra những tác phẩm có nhiều giá trị về văn chương và biện hộ. Các ngài đã trả
lời cho những vấn nạn và những ngộ nhận về thái độ người Kitô giáo đối với anh
em lương dân, về đời sống thực hành đạo giữa họ với nhau.
1/ BÊNH VỰC CHO CÁC KITÔ HỮU
Có nhiều người
ngoài Kitô giáo, các văn sĩ và cả triều đình lúc bấy giờ đã lên án, công kích
các Kitô hữu. Họ vu khống đủ điều, gán cho họ những việc làm vô luân... Văn sĩ
Celse là người có những tác phẩm vu cáo thậm tệ hơn cả. Ông ta cho rằng:
“Có một giống người mới sinh hôm qua, chúng vô tổ quốc
cũng chẳng có truyền thống, đã liên kết với nhau để chống lại mọi tổ chức tôn
giáo và dân sự, bị công lý truy nã, bị mọi người sỉ nhục, chúng lại lấy làm
vinh dự vì sự khinh bỉ này : đó là các Kitô hữu. Đây là các châm ngôn của họ
:"Đi khỏi đây, hỡi những người có văn hóa, khôn ngoan, biết phán đoán; với
chúng tôi, những kẻ văn hóa, khôn ngoan là những kẻ xấu. Còn người dốt nát,
thiển cận, thất học và đơn sơ, hãy mạnh dạn đến với chúng tôi".
Trong các giáo phụ hộ giáo, Justinô
là một giáo phụ nổi bật bênh vực Kitô hữu và giáo lý. Với các tác phẩm của
mình, ngài đã trả lời cho những người Do-thái cố chấp, tự giam mình trong lề
luật và sống độc đoán. Ngài đã minh chứng Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế mà các
tiên tri đã loan báo, và đạo của Người là đạo thật đến thay thế cho đạo cũ, là
đạo của mọi người và mọi người phải tin theo. Ngài bác bỏ những lời anh em
lương dân tố cáo người Kitô giáo là vô thần, bằng cách nêu lên những tấm gương
sáng và minh chứng đạo Chúa Kitô cao trọng hơn các đạo khác và kêu gọi chấm dứt
cuộc bách hại bất công, chỉ dựa trên thành kiến.
“Thực là bất công khi ra hình phạt cũng như kết án các
Kitô hữu chỉ vì họ là Kitô hữu, cũng như những tội ác mà người ta quy cho các
Kitô hữu chỉ là những lời vu khống vô căn cứ”.[1]
Ngài phản đối
vụ án một phụ nữ Kitô giáo bỏ người chồng gian dâm, bị kết án tử hình. Ngài đề
cao luân lý Kitô giáo, sau cùng đề nghị rút chiếu chỉ cấm đạo và đối xử với
người Kitô hữu theo luật công bình.
Athenagoras
theo chủ trương của Justinô, đã trả lời những vu cáo về ba tội ác người ta gán
cho các Kitô hữu là vô thần, loạn luân, ăn thịt người. “Diễn từ của chúng tôi
minh chứng với các ngài là chúng tôi chịu đau khổ bất công, ngược lại với mọi
luật pháp và lý lẽ”.[2]
Các Kitô hữu không phải là những người vô thần vì họ tin vào Thiên Chúa của các
tiên tri và niềm tin đó được thể hiện qua hành động nữa: “Chúng tôi không phải
là người vô thần, bởi vì chúng tôi nhìn nhận rằng Thiên Chúa là Đấng duy nhất”,[3] “Ai là kẻ có tâm hồn tinh tuyền đủ để
yêu thương kẻ thù của mình thay vì ghét họ”[4].
Theophil giám
mục thành Antiokia cũng viết một cuốn trình bày sự hiện hữu của Thiên Chúa và
sự quan phòng của Ngài, biện bác phiếm thần và những vu cáo của nhóm người ghét
đạo và trình bày đời sống thánh thiện, cao thượng của Kitô hữu. “Ông phi bác
những lời vu khống của dân ngoại và chứng minh tính vô luân của ngoại giáo,
nhấn mạnh sự mâu thuẫn trong những giải thích về thần thánh của các văn sĩ
ngoại giáo”.[5]
Tertullianus,
giáo phụ Latin đầu tiên và là nhà hộ giáo, cũng viết một kiệt tác văn chương hộ
giáo, chỉ trích thái độ bất công của các nhà cầm quyền đối với dân Kitô hữu,
bác bỏ những vu khống của người ngoại giáo và có lời lẽ thách thức, châm biếm họ
thậm tệ.
“Coi chừng quý vị đã phạm tội ác vô đạo khi tước mất
của người ta quyền tự do tôn giáo và cấm họ lựa chọn thần minh, nghĩa là không
cho phép tôi tôn kính Đấng mà tôi muốn tôn kính. Chẳng có ai muốn sự tôn kính
cưỡng ép cả, ngay một con người cũng thế”.[6]
2/ THẦN HỌC LOGOS
Justinô
Giai đoạn thượng cổ đánh dấu bởi hai trào lưu chính:
chủ nghĩa Platon theo nghĩa trung dung và trường phái Stoa. Tuy có những điểm
khác nhau về triết thuyết, nhưng cả hai trường phái này đều coi triết lý là
chìa khoá để hoàn toàn minh giải thực thể của logos. Logos là căn nguyên của lý
trí vốn ngự trị trong vũ trụ và con người. “Mọi người đều tham dự vào cùng một
Ngôi Lời. Các triết gia đã nhận biết phần nào chân lý nhờ những hạt giống của
Lời được gieo vãi trong nhân loại”.[7] Do đó, ai có lý trí thì đều có mầm giống của
Lời, hạt giống của lời không phải là của riêng nơi các tiên tri mà là có nơi
mọi người, mọi triết gia. Như thế, Justinô đã nỗ lực cho việc nối kết Kitô giáo
với các triết học ngoại giáo.
“Đức Kitô là trưởng tử của Thiên Chúa, Lời của Thiên
Chúa mà mọi người tham dự vào... Mọi người sống theo Lời (Logos) đều là Kitô
hữu, dù họ được xem là vô thần”.[8]
Justinô vừa trình bày đạo lý về
Thiên Chúa, vừa hội nhập những gì hợp với chân lý của niềm tin do triết học
mang lại; nhưng đồng thời Ngài cũng sử dụng học thuyết triết học để đã kích
những quan niệm thần thoại và minh chứng Thiên Chúa là Đấng siêu việt, Đấng
sáng tạo, Ngôi Lời là logos, cũng là Thiên Chúa, là nguyên nhân trung gian tác
thành vũ trụ[9].
Justinô cho biết rằng Thiên Chúa và thế giới
có mối liên hệ với nhau; thế giới được sáng tạo là do lòng nhân hậu của Thiên
Chúa và thế giới vật chất được hình thành nhờ Logos đó con người là trung tâm
của loài thọ tạo. Ngôi Lời hiện hữu từ đời như là quyền năng của Thiên Chúa;
nhưng nhiệm xuất từ Thiên Chúa trước công trình tạo dựng, và chính Ngôi Lời tạo
dựng thế giới. Đức Giêsu Kitô là Ngôi Lời, là Con Thiên Chúa chứ không phải thụ
tạo, Lời là một ngôi vị theo quan niệm Philôn[10].
Justinô quan niệm: Logos là lời Thiên Chúa, là Thiên Chúa, là Đấng trung gian,
nhưng logos thần linh chỉ xuất hiện trọn vẹn nơi Đức Kitô. Khả năng tri thức
chân lý của con người được Justinô cắt nghĩa là do Đức Kitô, Ngôi Lời Thiên
Chúa đã gieo vào con người “mầm mống” Lời Thiên Chúa, các triết gia Hylạp cũng
được tham dự, một cách giới hạn và theo dạng “mầm mống” vào Ngôi Lời là Đức
Kitô. Tất cả mọi người dù những người sống trước Đức Kitô, khi họ sống theo
Logos đều là Kitô hữu và tất cả mọi người đều tham dự vào logos. Nhưng chỉ với
Đức Kitô, Lời Thiên Chúa mới xuất hiện một cách viên mãn. Ngoài Đức Kitô, nhân
loại chỉ có những “hạt giống”, những “mầm mống” của logos. Justinô nhấn mạnh
tới tính siêu việt của mạc khải Kitô giáo vượt lên trên mọi triết thuyết của
con người. Ngôi Lời ở trong Thiên Chúa từ trước muôn đời, đồng nhất với Thiên
Chúa, nhưng vì cuộc sáng tạo thế giới và chương trình cứu độ, Người xuất phát
khỏi Thiên Chúa. Nói cách khác, Ngôi Lời đã được “sinh ra”. Và do thánh ý Chúa
Cha, Ngôi Lời đã nhập thể và làm người, mặc lấy xác phàm nhân loại.
Như
vậy, điều mới mẻ của đức tin Kitô giáo là vị trí dành cho Đức Kitô. Theo
Justinô: Đức Kitô là Logos, hằng hữu bên cạnh Thiên Chúa. Trước khi Đức Kitô
(logos) nhập thể, Logos đã tác động cùng với Thiên Chúa trong việc tạo thành vũ
trụ. Nhờ đạo lý về “mầm mống chân lý”. Justinô đã mở đường cho thần học về lịch
sử mạc khải và cứu rỗi. Chỉ có một chân lý mà thôi, nhưng chân lý được tỏ lộ
cách tiệm tiến, từ những “mầm mống” thô sơ cho tới lúc viên mãn. Logos đã thông
đạt cho con người chân lý ngay từ khi tạo dựng, nhưng chỉ mạc khải toàn vẹn nơi
Đức Kitô.
Đối
với người Do-thái giáo, Justinô đã trích dẫn rất nhiều đoạn văn Cựu ước cho
thấy các lời tiên tri trong Cựu ước và việc chúng được hoàn tất nơi Đức Giêsu
Kitô. Ngài chứng minh luật Môsê chỉ có giá trị tạm thời, nhằm chuẩn bị cho Đức
Kitô. Ngôi Lời phát xuất từ Thiên Chúa, được Thiên Chúa sinh ra. Ngài luôn tìm
đủ mọi cách để minh chứng sự khác biệt sống động nơi Thiên Chúa phù hợp với Kinh
Thánh. Ngôi Lời, Đấng là Con nội tại trong Thiên Chúa. Justinô minh chứng cho
thấy Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, là Đấng cứu độ khi trích dẫn
lời các ngôn sứ của người Do-thái đã tiên báo trước về Đức Giêsu: Đấng Kitô sẽ
đến thế gian, sẽ sinh làm con một người trinh nữ, làm người như mọi người, chịu
chết và phục sinh để cứu độ mọi người. Những ai tin Đức Giêsu là Đức Kitô, vâng
lời và tuân hành mệnh lệnh người thì được cứu, cho dù họ là người Do thái.
Tatianô
Trong Diễn luận gửi người Hy-lạp,
Tatianô bàn về tương quan của Logos với Chúa Cha và vũ trụ, ông lý luận dựa trên
ý niệm Logos. Chính qua công trình tạo dựng mà chúng ta nói được về nguồn gốc
Logos. Logos là nguyên lý tạo dựng, hiện hữu vĩnh cửu nơi Thiên Chúa và được
sinh ra bởi Thiên Chúa.
“Thiên Chúa đã hiện hữu từ thuở đời đời và chúng ta
học biết rằng vào thuở ban đầu thì quyền năng của Logos đã hiện hữu...Bởi ý chí
đơn thuần của Ngài mà Ngôi Lời xuất phát, và Ngôi Lời này không tan biến vào hư
vô, là công trình được sinh ra đầu tiên của Ngài. Chính Ngôi Lời này, như chúng
tôi được biết Người, là nguyên lý của vũ trụ”.[11]
Athenagoras
Athenagoras cũng
xác định thần tính của Ngôi Lời có từ đời đời. Ngôi Lời là Thần trí Thiên Chúa,
là Con của Ngài tự muôn thuở. Ngôi Lời phát xuất từ Thiên Chúa và là nguyên lý
của mọi tạo dựng.
“Chúa Con là Con đầu lòng của Chúa Cha, không phải
được tạo thành, bởi vì ngay từ thuở ban đầu, Thiên Chúa vốn là thần trí vĩnh
cửu, Ngài vốn có trong mình Lời cũng là lý trí vĩnh hằng từ đời đời”.[12]
3/ ĐỨC KITÔ – TOÀN THỂ MẦU NHIỆM
Khi trình bày về đạo lý Thiên Chúa,
Justinô sử dụng những học thuyết triết học để đả kích những quan niệm thần
thoại mà thời bấy giờ triết học Hy lạp đang đề cao vai trò của các vị thần, thì
ngài luôn khẳng định Thiên Chúa là Đấng siêu việt, nguyên nhân tác thành vũ
trụ. Cùng với quan điểm triết học về Thiên Chúa, thánh Justinô cũng thêm một
quan điểm khác mà mạc khải đã mang lại, nhờ vậy mà chúng ta biết được rằng
Thiên Chúa tạo thành vũ trụ cũng là Chúa Cha. Điều này là một suy tư thật mới
mẻ của đức tin Kitô giáo, vì xác định được vị trí dành cho Đức Kitô. Thật vậy, Đức
Kitô là Logos hằng hữu bên cạnh Thiên Chúa. Vì thế, trước khi xuất hiện nơi Đức
Kitô, Logos đã tác động cùng với Thiên Chúa trong việc tạo dựng vũ trụ. Như đã
trình bày, thì thánh Justinô đã sử dụng thuyết của phái Stoa về “mầm giống của
Logos” để cho thấy rằng các nhà hiền triết Hy lạp cũng nhận được chân lý, nhờ
sự thông dự vào Logos, tức Ngôi Lời của Thiên Chúa.
Tuy phải dựa vào triết học Hy lạp để
trình bày chân lý mạc khải, nhưng tác giả không ngần ngại đương đầu những điểm
mà đức tin vượt quá tầm mức của lý trí, chẳng hạn như việc cứu độ nhân loại qua
cái chết của Con Thiên Chúa. Thánh Justinô cũng mạnh dạn bênh vực sự sống lại
của thân xác, một điều chướng tai đối với triết học đương thời.
Nhờ đạo lý về “mầm mống chân lý”, thánh
Justinô đã mở đường cho một thần học về lịch sử mạc khải và cứu rỗi. Chỉ có một
chân lý mà thôi, nhưng chân lý được tỏ lộ cách tiệm tiến, từ những mầm mống thô
sơ cho tới lúc viên mãn. Logos đã thông đạt cho con người ngay từ khi tạo dựng,
nhưng chỉ mạc khải toàn vẹn nơi Đức Kitô. Nhờ quan điểm đó, thánh Justinô nhìn
nhận những giá trị tích cực của văn hoá Hy lạp, cũng như vai trò của Cựu Ước
chuẩn bị cho tân Ươc. Theo thánh Justinô thì phàm ai sống theo chân lý thì đáng
mang danh là Kitô hữu, cho dù người có tự xưng là vô thần.
Luận cứ về chân lý Kitô giáo không phải
là chỉ dựa trên lý luận siêu hình nhưng còn được chứng tỏ qua cuộc sống hằng
ngày của các tín hữu. Họ sống chân thành, thanh sạch, yêu thương kẻ thù, sẵn
sàng đón nhận cái chết để bày tỏ niềm gắn bó với chân lý.
Khi bàn về vấn đề thập giá, người Do thái
cho rằng tôn thờ thập giá của Kitô giáo là một việc làm thật điên rồ, là dấu
hiện nói lên sự chúc dữ của Thiên Chúa. Để đối phó với khó khăn các giáo phụ đã
khai triển một nền thần học về thập giá, nhằm minh giải thập giá như một chiều
kích căn bản giúp con người hiểu được ý nghĩa của hiện thực. Thánh Justinô minh
giải: “Nếu Đấng Kitô không chịu đau
khổ, nếu các ngôn sứ đã không tiên báo rằng, vì tội lỗi của dân, Đức Kitô bị
đem đi thủ tiêu, bị làm nhục, bị đánh đòn và bị liệt vào hành tội nhân, như
chiên con bị đem đi làm thịt”[13]. Như vậy, thập giá là một tượng trưng,
là dấu hiệu để con người tìm đến đích điểm cho cuộc đời mình. Đó là nét độc đáo
mà Người biểu lộ cho toàn thế giới, là Đấng mà các ngôn sứ đã tiên báo.
“Hình thức của thập giá cho nó một biểu tượng
của vũ trụ, bởi vì nó nhắm đến bốn chiều kích vũ trụ: tay ngang của thập giá
diễn tả tính phổ quát của ơn cứu độ, tay dọc diễn tả sự hòa giải giữa trời và
đất. Sự giao nhau giữa hai tay nhấn mạnh đến sự tạo dựng mới, được củng cố,
được thống nhất. Thập giá là quyền lực của Đức Kitô”[14].
4/ LOGOS GIEO MẦM VÀO MỖI NGƯỜI
Dựa vào quan niệm thần học của Gioan,
thánh Justinô khẳng định Đức Giêsu là Ngôi Lời, là Con Thiên Chúa chứ không
phải được tạo thành như một thọ tạo. Và như vậy, con người cũng tham dự vào
Logos của Thiên Chúa. Cho nên để nhận biết chân lý mạc khải của Thiên Chúa, con
người phải được chính Ngôi Lời tác động. Tuy nhiên, với các triết gia Hy lạp
cũng được tham dự một cách giới hạn và theo dạng mầm mống, vào Ngôi Lời là Đức
Kitô, họ có Lời Thiên Chúa ở dạng mầm mống, vì thế họ có thể có một tri thức
đúng đắn nhưng giới hạn. Với quan niệm này Justinô có thể coi các triết gia Hy
lạp là những Kitô hữu trước Đức Kitô và có thể đánh giá thành tựu của họ là
trong căn bản đã thuộc về Kitô giáo. Nhưng chỉ với Đức Kitô, Lời Thiên Chúa mới
xuất hiện một cách viên mãn.
Đức Kitô là Con đầu lòng của Thiên Chúa,
là Ngôi Lời đến với toàn thể loài người, để ai tin và sống theo Ngôi Lời đều là
Kitô hữu, dù có bị người ta coi là vô thần[15]. Sống theo Ngôi Lời là sống trọn vẹn
niềm tin tuyệt đối mầu nhiệm Thiên Chúa làm người, chính Đức Giêsu đã theo
thánh ý Thiên Chúa Cha, Ngài được sinh ra trong lòng đức trinh nữ Maria, Ngài
đã bước vào cuộc vượt qua và phục sinh, đó là niềm tin và hy vọng của người Kitô
hữu. Đây là một sự xác nhận thánh Justinô thực sự dung hoà giữa triết thuyết
của Platon với với giáo lý của Đức Kitô nhưng thực ra chúng không thể đồng
nhất, cũng như với giáo thuyết của những người khắc kỷ, thực trong họ đã nhận
ra nơi Ngôi Lời có tính thần thiêng đã được reo rắc trên thế giới, và đã có thể
nhận ra phần nào đó cách diễn tả chân lý nhưng vì họ có những mâu thuẫn trong
những điểm chính yếu nên tỏ ra không có một sự hiểu biết chắc chắn.
Tóm lại, các giáo phụ hộ giáo thời kỳ đầu
đã cố gắng nỗ lực để bảo vệ đoàn chiên Chúa khỏi những công kích từ bên ngoài
và sự bách hại của nhà nước Rôma. Các ngài cho thấy rằng các Kitô hữu có những
đức tính vượt bậc trong sự thánh thiện, đức tin cũng như luân lý là sức mạnh cho
nhân loại. Đức tin Kitô giáo là sự hợp lý vì được xây dựng trên một Thiên Chúa
duy nhất, trên thần tính của Đức Kitô và sự Phục sinh của Người.
Bên cạnh đó các ngài nhấn mạnh đến tính
siêu việt của mạc khải Kitô giáo. Ngoài Đức Kitô, nhân loại chỉ có được những mầm
mống của Logos, những chân lý rời rạc, mâu thuẫn. Do vậy, chỉ có Tin Mừng mới
mạc khải tất cả Logos, nguồn suối của chân lý vẹn toàn. Trong bối cảnh đó, các
giáo phụ đã cố gắng hết sức để bảo vệ Tin Mừng, đặc biệt bảo vệ tính nguyên
tuyền của mầu nhiệm Nhập Thể, thương khó, phục sinh của Đức Kitô. Vì chưng,
trong nỗ lực của các ngài nhằm diễn đạt sự hiểu biết của mình về sứ điệp Tin
Mừng tuyệt diệu. Các ngài đã phải chiến đấu và đã dò dẫm để trình bày sứ điệp
này cho cộng đoàn của các ngài cũng như của thời đại phức tạp mà các ngài sống. Công
trình của các ngài được quy chiếu trên những truyền thống chân chính. Những
truyền thống chân chính này là một trong những thành phần hệ trọng nhất đặt nền
tảng cho những suy tư Kitô học hiện nay. Hơn nữa, chúng còn như là thứ ánh sáng
dẫn đường cho sự triển nở tiếp diễn không ngừng trong Giáo Hội.
NVT.
[1] Lê Văn Chính, Giáo Trình Giáo Phụ Học, Đại Chủng Viện Thánh Giuse, 2009, tr.52.
[2] Sđd.,
tr. 62.
[3]
Bernard Sesboue Joseph
Wolinsky, Thiên Chúa Cứu Độ - Lịch Sử Tín Điều, Lê Văn Chính chuyển ý, 2006, tr. 37.
[4] Lê Văn Chính, Sđd.,tr. 62.
[5] Lê Văn Chính, Sđd., tr. 66.
[6] Jacques Liebaert, Giáo Phụ, tập 1, Đại Chủng Viện Thánh Giuse, tr.113.
[7]
Bernard Sesboue Joseph Wolinsky, Sđd., tr.38.
[10] Xc. Karl-Heinz Ohlig, Kitô Học Qua
Các Tác Giả, tr 115.
[13] Xc. Niemann, Franz-Josef, Đức Giêsu-Đấng Mặc Khải qua các tác giả,
Đại Chủng Viện Thánh Giuse, tr. 59.
[14]
Bernard Sesboue Joseph Wolinsky, Sđd., tr.16.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét