Theo Đại từ điển Tiếng Việt, xuất thế là “lánh đời, lui vào ở ẩn hoặc đi tu, không tham gia hoạt động xã hội nữa”[1] còn nhập thế là “gánh vác việc đời, không xa lánh cõi đời”[2].
Trước nay, nhiều người vẫn định kiến rằng Phật giáo là một tôn giáo
xuất thế, bởi bản thân Phật giáo không chủ trương tham gia và giải quyết
các vấn đề chính trị – xã hội, mà dành công việc đó cho các các tôn
giáo khác. Ra đời trong một xã hội phân biệt đẳng cấp khắc nghiệt với
những đau thương, hờn tủi, “nước mắt chúng sinh nhiều hơn biển cả”, song
con đường giải thoát của Phật giáo không phải là hoạt động thực tiễn
nhằm cải tạo tình trạng hiện tồn mà là tu luyện để đạt tới cảnh giới
niết bàn, không còn vui – buồn, sướng – khổ.
Tuy nhiên, đây chỉ là một cách tiếp cận
thiếu tính lịch sử, trong quá trình phát triển của mình, không phải lúc
nào Phật giáo cũng xa lánh cõi đời, không liên quan tới các vấn đề
chính trị – xã hội. Sự nhập thế của Phật giáo đã được minh chứng bằng
nhiều hoạt động mang đầy tính nhân văn và có ý nghĩa thiết thực. Trong
thời đại Lý – Trần ở Việt Nam, vai trò của Phật giáo đã thật sự tỏa
sáng, gắn bó chặt chẽ với vận mệnh của dân tộc, với những thành tựu văn
hóa rực rỡ và chiến công oanh liệt. Đề cập vấn đề này, trong bài Phật giáo Việt Nam thế kỷ XXI,
nhà nghiên cứu Phật học Minh Chi đã viết: “Thời đại Lý – Trần cung cấp
cho chúng ta mô hình một Phật giáo gắn bó với dân tộc và phục vụ dân
tộc, mà vẫn không làm tổn thương gì đến chân giá trị tâm linh của đạo…
Ai bảo chỉ có đạo Khổng mới lo được cho dân cho nước, còn đạo Phật chỉ
lo chuyện niết bàn và âm phủ? Ai bảo đạo Phật chỉ lo chuyện người chết
và thế giới bên kia, còn đạo Khổng mới thật sự lo chuyện người sống và
chuyện đời nay? Đạo Phật Lý – Trần đã dứt khoát trả lời vấn đề này của
Tống Nho, và trả lời bằng thực tế của những thành tích dựng nước và giữ
nước chói lọi”[3].
Cũng vào thời đại Lý – Trần, có những vị vua đã hướng mình theo Phật,
xuất gia và trở thành các bậc chân tu; trong đó nổi bật lên là vua Trần
Nhân Tông – vị tổ thứ nhất của Thiền phái Trúc Lâm. Là một đấng minh
quân, rồi là một thiền sư, Trần Nhân Tông đã “gắn đạo và đời”, đưa Phật
giáo tham gia vào đời sống xã hội, vào sự nghiệp chung của cả dân tộc.
Chính bởi vậy, Giáo sư Đào Duy Anh dù trước đó nhìn nhận về Phật giáo
như một tôn giáo bi quan, yếm thế; nhưng khi nghiên cứu lịch sử thời kỳ
Lý – Trần đã phải thốt lên: “Trần Thái Tông là vua sáng nghiệp nhà Trần,
lại là tác giả sách Khóa hư Lục, là tác phẩm tiêu biểu của Thiền tông ở
thời Trần, và Trần Nhân Tông là vị vua anh hùng của nhà Trần mà lại là
Tổ thứ nhất của phái Trúc Lâm trong Thiền Tông Việt Nam, cả hai người
đều kết hợp một cách tốt đẹp hoạt động tu hành và hoạt động kinh bang tế
thế”[4].
Vua Trần Nhân Tông (tên thật là Trần Khâm – con trưởng của Thánh Tông
Trần Hoảng) sinh vào ngày 11 tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 8 (1258).
Khi sinh ra được mô tả như “được tinh anh của thánh nhân, đạo mạo thuần
túy, nhan sắc như vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng, hai cung
đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên đồng tử, vai bên tả có nốt ruồi đen, cho
nên có thể cáng đáng được việc lớn”[5]. Trong hai lần chống xâm lược Nguyên Mông
(1285, 1287) – đội quân hùng mạnh bậc nhất thế giới thời bấy giờ, Trần
Nhân Tông đã lãnh đạo nhân dân Đại Việt vượt qua mọi khó khăn, thử
thách, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi huy hoàng. Năm 1293, Nhân Tông
nhường ngôi cho Anh Tông và tự mình làm thái thượng hoàng. Năm 1295,
ông xuất gia tại Vũ Lâm, sau đó lại trở về; tới năm 1299, mới chính thức
vào tu ở núi Yên Tử và khai sinh ra Thiền phái Trúc Lâm. Vua Trần Nhân
Tông từ trần năm 1308 tại am Ngọa Vân, núi Yên Tử. Tuy chỉ sống trên
nhân gian vỏn vẹn 50 năm, nhưng ông đã để lại cho hậu thế tấm gương của
một hiền nhân hết lòng vì dân, vì nước, một bậc chân tu với những triết
lý vừa huyền diệu, vừa gần gũi với cuộc đời.
Tìm hiểu khuynh hướng nhập thế trong tư tưởng Phật giáo Trần
Nhân Tông phải bắt đầu từ việc tìm hiểu tư tưởng của ông, để thấy rằng
tư tưởng đó gần gũi với đời, với cõi trần tục. Song, đây không phải là
một điều dễ dàng, vì hầu hết những tác phẩm mà Trần Nhân Tông viết được
sử sách ghi chép lại như Thiền lâm thiết chủy ngữ lục, Trúc lâm hậu lục, Đại Hương hải ấn thi tập, Tăng già toái sự, Thạch thất mị ngữ đã thất tán; chỉ còn lại một số bài thơ, văn và ngữ lục được chép rải rác đó đây trong Thánh đăng ngữ lục, Việt âm thi tập, Toàn Việt thi lục, Thiền tông bản hạnh…
Do đó, một vấn đề có tính phương pháp luận cần phải chú ý khi nghiên
cứu tư tưởng Trần Nhân Tông (cũng là vấn đề phương pháp luận để nghiên
cứu tư tưởng Việt Nam) đó là không chỉ căn cứ vào các tác phẩm mà còn quan tâm đến hành động.
Giáo sư Trần Văn Giàu từng khẳng định “có các tác phẩm nói lên tư tưởng
mà cũng có hành vi, thái độ, hoạt động cá nhân hay tập thể nói lên tư
tưởng”[6]. Các tác giả của tác phẩm Đại cương Lịch sử tư tưởng Triết học Việt Nam
cũng viết: “… ở Việt Nam, các vĩ nhân, anh hùng dân tộc, thậm chí các
nhà hiền triết, minh triết thường viết rất ít. Đối với họ chủ yếu là
hành động, hoạt động nhằm ích nước, lợi dân, đem lại độc lập, tự do,
hạnh phúc cho dân tộc. Bởi vậy, chỉ dựa vào câu chữ của họ mà nói lên tư
tưởng của họ e rằng không đầy đủ, hoàn chỉnh. Tư tưởng của họ, nó bàng
bạc ở khắp mọi nơi, trong hành vi, trong đối nhân xử thế, trong toàn bộ
cuộc đời của họ”[7]. Vấn đề cần chú ý tiếp theo khi nghiên cứu tư tưởng Phật giáo Trần Nhân Tông là việc phải quan tâm đến tư tưởng, hành động của ông cả trước và sau khi xuất gia.
Sở dĩ như vậy vì ngay từ khi là một thái tử, là vua và sau đó là thái
thượng hoàng, Trần Nhân Tông đã một lòng kính Phật, học tập và nghiên
cứu Phật giáo. Theo Thánh đăng ngữ lục, ông từng từ chối ngôi vị
Thái tử và có lần rời gác son, điện ngọc tìm vào núi Yên Tử để tu hành
làm cả triều đình lo lắng tìm kiếm. Vì thế nên dù chưa xuất gia nhưng tư
tưởng, hành động của Trần Nhân Tông đã thấm nhuần triết lý nhà Phật.
Sự hình thành của bất cứ một học thuyết nào cũng là kết quả của sự
tương tác giữa yếu tố khách quan và nhân tố chủ quan. Đó là sự phản ánh
điều kiện sinh hoạt của xã hội đương thời; sự kế thừa, chắt lọc những
tinh hoa văn hoá của nhân loại và sau cùng khúc xạ qua lăng kính của cá
nhân nhà tư tưởng. Tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân Tông cũng không nằm
ngoài quy luật đó. Lúc bấy giờ, đế chế Nguyên Mông với tham vọng bành
trướng đã thổi ngọn lửa chiến tranh đi khắp thế giới. Biên niên sử
của tu viện thánh Pantalênon ở Côlôn đã viết: “Nỗi sợ hãi trước quân dã
man lan tận các xứ xa xôi, không những ở Pháp mà ở Buốcgông và Tây Ban
Nha, là những nơi mà từ trước tới nay chưa hề biết đến cái tên Tácta”[8].
Đối với Đại Việt, sau thất bại lần thứ nhất vào năm 1258, quân Nguyên
Mông vẫn nuôi hận, chúng liên tục sách nhiễu và gây sự hòng tìm cớ tiến
công xâm lược. Mô tả điều này, trong Hịch tướng sỹ, Hưng Đạo
Vương Trần Quốc Tuấn đã viết: “thấy sứ giặc qua lại, nghênh ngang ngoài
đường, khua tấc lưỡi cú vọ mà làm nhục triều đình, lấy cái thân chó dê
mà ngạo mạn tể tướng, thác lệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để thỏa
lòng tham vô cùng; giả danh Vân Nam Vương mà đòi bạc vàng để kiệt của
kho có hạn! Ví như ném thịt cho hổ đói, thế nào mà khỏi mối lo sau?”[9].
Là một người mộ đạo nhưng Trần Nhân Tông cũng là một vị vua, hơn nữa
lại là một vị vua yêu nước, ông nhận rõ những nguy cơ đối với sự tồn
vong của dân tộc. Khi chiến tranh nổ ra, ông đã cùng với quân dân nếm
mật, nằm gai, chiến đấu oanh liệt cho đến ngày toàn thắng.
Từ thực tế đó, tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân Tông đã thể hiện
khuynh hướng nhập thế tích cực với mục đích cứu nhân độ thế, giải thoát
chúng sinh bằng hành động thực tế là bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ
quốc, tránh cho nhân dân khỏi cảnh cửa nát, nhà tan, lầm than, đau khổ.
Sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm chính là kết quả của những nỗ lực đưa
Phật giáo sát cánh cùng dân tộc, trở thành hệ tư tưởng chủ đạo của xã
hội. Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam đã ghi: “Sự
hình thành thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là hệ quả, logic tất yếu để tiếp
nối và hoàn tất sự nghiệp vang dội ở bến Chương Dương, cửa Hàm Tử, sông
Bạch Đằng”[10].
Về mặt lý luận, Trần Nhân Tông là người tinh thông Tam giáo (Nho,
Phật, Lão), song có thể nói tư tưởng Phật giáo của ông chủ yếu được hình
thành trên cơ sở tiếp thu tinh hoa của Thiền học, đặc biệt là quan niệm
“tức Tâm tức Phật”. Quan niệm này đã được Quốc sư Trúc Lâm sử dụng để
thức tỉnh Trần Thái Tông (ông nội của Trần Nhân Tông) khi ông chán nản
cuộc đời, muốn tìm vào núi rừng, nương nhờ cửa Phật: “Trong núi vốn
không có Phật, Phật chỉ ở trong tâm. Tâm lặng mà biết gọi là chơn Phật.
Nay Bệ hạ nếu ngộ tâm này thì tức khắc thành Phật, không nhọc tìm cầu
bên ngoài”[11]. Sau này, trong Khóa hư lục,
chính Trần Thái Tông đã viết: “Ngã thân tức Phật thân thị, vô hữu nhị
tướng” (Thân ta tức là thân Phật, không có hai tướng) hay “Khái thức Bồ
đề giác tính, cá cá viên thành” (sao lại không biết tính giác Bồ đề, mọi
người đều có đầy đủ). Điều này có nghĩa rằng, Phật không ở đâu xa mà ở
trong tâm mỗi con người, không tách biệt thành hai, mọi chúng sanh ai
nấy đều có đầy đủ bản tánh giác ngộ. Ông cũng khẳng định: “Mạc vấn đại
ẩn tiểu ẩn, hưu biệt tại gia xuất gia, bất câu tăng tục, chủ yếu biện
tâm, bổn vô nam nữ, hà tu trước tướng” (Không kể là ẩn dật lớn hay nhỏ,
không kể là tại gia hay xuất gia, tăng hay tục, điều cốt yếu là biện
tâm, vốn không phân biệt nam nữ, sao lại còn chấp tướng)[12].
Bởi “Phật tại tâm” nên chớ câu nệ điều gì, mọi con đường đều có thể dẫn
đến giải thoát, quan trọng là con người biết quay về với bản tánh vốn
có của mình.
Tiếp nối tư tưởng của Trần Thái Tông, trong bài Tự thuật Trần Thánh Tông viết:
- Nhận đắc bản lai chân diện mục
Đáo đầu hà xứ bất hưu hưu[13]
Nguyễn Đăng Thục đã dịch nghĩa: “Nhận ra được cái bộ mặt chân thật
vốn có bản nhiên của mình, không lầm với cái sai lạc thì bất cứ hoàn
cảnh nào mà chẳng thung dung trong lòng”[14].
Điều đó cũng có nghĩa rằng dù ở bất cứ nơi đâu, cõi trần tục ồn ào náo
nhiệt hay nơi thâm sơn, cùng cốc nhưng nếu biết giữ tâm trong sáng, con
người vẫn sẽ tìm thấy được tính Phật, “chân diện” của bản thân.
Dòng suối Thiền huyền diệu đã chảy từ Trần Thái Tông qua Trần Thánh
Tông để đến với Trần Nhân Tông. Song bên cạnh đó, Trần Nhân Tông còn
chịu ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp bởi tư tưởng của Tuệ Trung Thượng
sỹ. Sự gặp gỡ giữa Trần Nhân Tông và Tuệ Trung Thượng sỹ là nhân duyên
lớn để đưa tư tưởng Phật giáo của Nhân Tông lên một bước tiến mới, đi
vào vùng trời giải thoát bao la. Tuệ Trung khẳng định rằng “TÂM VẠN PHÁP
= TÂM PHẬT = TÂM TA”[15], trong Phật tâm ca, ông viết:
- Vạn pháp chi tâm tức Phật tâm
Phật tâm khước dữ ngã tâm hợp
Pháp nhĩ như nhiên hoàn cổ kim(Tâm của vạn pháp là tâm của Phật
Tâm của Phật lại phù hợp với tâm của ta
Cái phép đó vẫn tự nhiên như vậy từ xưa đến nay)[16]
Với tư tưởng trên, Tuệ Trung đã nêu lên một nguyên tắc muốn đến với Phật thì phải đưa tâm ta phù hợp với tâm vạn pháp.
Tâm vạn pháp ở đây chính là thế giới hiện tượng xung quanh con người
với sự phức tạp và đa dạng vốn có của nó. Con đường giải thoát mà Tuệ
Trung đề cập là hòa vào đời, lấy cuộc đời làm môi trường để tu luyện.
Theo ông, đạo và đời không tách rời nhau, đời cũng là đạo mà đạo cũng là
đời. Trong bài Dưỡng chân, Tuệ Trung viết: Hải giới thiên đầu thị dưỡng chân
(Góc bể chân trời cũng là nơi nuôi dưỡng chân tính của ta). Điều đó
cũng chẳng có gì là lạ giống như hoa sen nở trong lò lửa cuộc sống “gần
bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Như vậy, tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân Tông được hình thành từ sự
phản ánh hoàn cảnh xã hội Đại Việt lúc bấy giờ và sự kế thừa dòng chảy
Thiền, đặc biệt là tư tưởng của các bậc tiền nhân như Trần Thái Tông,
Trần Thánh Tông, Tuệ Trung Thượng sỹ. Trên cơ sở đó, Trần Nhân Tông đã
diễn tả quan niệm “tức Tâm tức Phật” (quan niệm cơ bản của Thiền học)
với một sắc thái mới:
- Bụt ở trong nhà,
Chẳng phải tìm xa,
Nhân khuẩy bản nên ta tìm Bụt.
Đến cốc hay chỉn Bụt là ta[17].
Chúng sinh thường lầm tưởng rằng muốn giải thoát phải xa lánh cuộc
sống trần tục đầy bụi bặm để tìm đến chốn thiêng liêng tu hành, cõi Phật
được hình dung như một nơi nào đó xa xăm, trừu tượng, khó đạt đến.
Song, Trần Nhân Tông cho rằng “Bụt ở trong nhà”, tồn tại trong chính bản
thân con người, trong chính thế giới hiện tượng này chứ không phải ở
tầng trời mông lung nào đó, “Nói theo danh từ triết học thì cái tuyệt
đối nằm trong cái tương đối, cái tương đối chứa đựng cái tuyệt đối. Chân
Như, Niết bàn, Bồ đề, Chân tâm, Phật không phải ở đâu xa mà nằm ngay
trước mắt”[18].
Bởi vậy, sẽ là hoài vọng nếu cứ mải mê tìm Phật ở những chốn xa xôi.
Tục ngữ ta có câu: “Phật ở trong nhà mà lại cầu Thích Ca ngoài đường”,
chỉ tại “khuẩy bổn” nên mới đi tìm Phật, đâu hay rằng “Bụt chính là ta”,
thành Phật là thành ngay trong tâm, chứ không phải thành ở trên núi
cao, rừng sâu. Do vậy, chỉ cần quay đầu nhìn lại chính mình thì sẽ đến
được bến bờ của sự giác ngộ.
Bên cạnh những khái niệm “Chân như, Bồ Đề giác tính…”, Trần Nhân Tông
đã đưa ra khái niệm “lòng”, “tính sáng” để nói đến tâm Phật của con
người, ông khẳng định:
- Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương;
Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc[19]
Con đường giải thoát mà Trần Nhân Tông đề xướng là làm cho lòng trong
sạch, giữ gìn tính sáng chứ không cần “ngờ hỏi Tây Phương” hay “tìm về
Cực lạc”, ông lại viết:
- Gìn tính sáng, mựa lạc tà đạo
Sửa mình học, cho phải chính tông
Chính Bụt là lòng, xá ướm hỏi đòi cơ Mã tổ[20]
Trần Nhân Tông chủ trương tìm Phật ngay trong cuộc sống hiện tại, sống giữa đời mà vui với đạo (cư trần lạc đạo).
Mấu chốt của vấn đề ở đây là “chân lý giải thoát”, mà chân lý ấy tồn
tại ở khắp mọi nơi, nhất là trong cuộc đời trần tục. Cái tính sáng mà
con người hằng mong mỏi nằm chính trong con người, trong thế giới trần
tục cho nên “con người trần tục muốn đạt đến cái nằm trong thế giới trần
tục… tốt nhất nên bằng con đường trần tục”[21],
khi đó giá trị của sự giải thoát còn tăng lên gấp nhiều lần. Với Trần
Nhân Tông, đạo và đời không có gì phân biệt dù ở “thành thị” gánh vác
việc đời mà tấm lòng thanh tịnh thì cũng chẳng khác gì đang phiêu diêu
tự tại chốn “sơn lâm”:
- Mình ngồi thành thị
Nết dụng sơn lâm[22]
Vậy nên:
- Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc
Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực cả uổng công[23]
Nguyễn Đăng Thục khẳng định: “Nhân Tông không chủ trương xuất thế để
cầu giác ngộ. Trái lại muốn giác ngộ ngài đòi phải lấy cuộc đời nhân
quần xã hội làm kinh nghiệm thử thách, từng trải mà giải thoát, chứ
không trầm mặc tư tưởng”[24].
Đức Thế Tôn xưa kia phải trải qua trăm ngàn đau khổ, vượt mọi khó khăn
mới thành chánh quả. Bản thân con người chẳng thể lấy việc lánh đời, từ
chối mọi “hỉ, nộ, ái, ố” mà cuộc đời mang lại để hẹn tới kiếp sau. Trong
bài giảng tại viện Kỳ Lân tháng giêng năm Bính Ngọ (1306), Trần Nhân
Tông đã nói: “Này các người, thời gian dễ trôi qua, mạng người không
dừng lại. Cớ sao ăn cháo ăn chay, mà không rõ việc cái bát, cái tô,
chiếc thìa, đôi đũa để tìm hiểu?”[25].
Những cái giản dị xung quanh con người như “cái bát, cái tô, chiếc
thìa, đôi đũa” mà không hiểu rõ, cũng như không hiểu rõ bản thân mình
thì còn nói chi đến chuyện giác ngộ. Vì thế, ở cuối bài Cư trần lạc đạo, Trần Nhân Tông đã nêu lên nguyên tắc tu hành của mình:
- Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền[26].
Tinh thần “vui đạo tùy duyên” mà Trần Nhân Tông đưa ra đã khẳng định
tính chất đại chúng của Phật giáo, tất cả mọi chúng sinh đều có thể theo
đuổi con đường giải thoát ở mọi nơi, mọi lúc chứ không chỉ ở những nơi
tu hành nghiêm trang, chẳng chút bụi trần. Đây chính là lối tu đại ẩn
như nhà nghiên cứu Phật học Minh Chi đã khẳng định: “Phật giáo chỉ cho
chúng ta một phương pháp tu hành không cần phải cạo đầu vào chùa, không
cần lánh lên núi sống cô độc một mình mà sống ngay giữa đời như người
bình thường mà vẫn có thể giác ngộ và giải thoát”[27].
Theo Trần Nhân Tông, tu ở giữa đời thì phải giúp ích cho đời vì làm việc cho đời cũng là làm việc cho đạo. Trong bài thơ Thân như, ông viết:
- Thân như hô hấp tỵ trung khí,
Thế tự phong hành lĩnh ngoại vân
Đỗ quyên đề đoạn nguyệt như trú
Bất thị tầm thường không quá xuân(Thân như hơi thở vào ra mũi
Thế tựa gió luồn mây núi xa
Đỗ quyên rền rĩ trăng ngày sáng
Đừng để tầm thường xuân luống qua)[28]
Thời gian không bao giờ quay trở lại tựa như “đám mây bay theo gió
ngoài núi xa”, tiếng chim quyên kêu ra rả như thúc đẩy con người hành
động. Bởi thế, bài thơ trên của Trần Nhân Tông nhằm mục đích khuyên nhủ
mọi người đừng bỏ phí ngày xuân, để ngày xuân trôi qua “một cách tầm
thường”. Ông cho rằng sống mà không làm gì cho đời là điều đáng hổ thẹn:
- Sinh vô bổ thế trượng phu tàm
Mã đầu phong tuyết trùng hồi thủ
Nhãn để giang san thiểu trụ tham
- (Sống không giúp ích cho đời là điều đáng hổ thẹn của kẻ trượng phu
Gió tuyết trước đầu ngựa, người lại trở về
Non sông đầy trong đáy mắt, hãy dừng ngựa lại chốc lát)[29]
Hình ảnh “kẻ trượng phu” khiến ta liên tưởng đến mẫu người quân tử
của Nho giáo với mục tiêu hướng đến là “tu thân, tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ”. Sau này, Nguyễn Công Trứ trong bài Chí làm trai đã viết:
- Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả, trả vay
Chí làm trai nam, bắc, đông, tây
Cho thỏa sức vẫy vùng trong bốn bể
Nhân sinh thế thượng thùy vô nghệ
Lưu đắc đan tâm chiếu hãn thanh[30]
Khát vọng làm trai quyết trả nợ non nước, phải “để danh gì với núi
sông” mà Nguyễn Công Trứ (nhà Nho ở thế kỷ XIX) đề cập có lẽ cũng không
khác tư tưởng của Trần Nhân Tông – một ông vua Phật – ở trước đó sáu thế
kỷ.
Có thể nói, những nội dung trình bày ở trên đã thể hiện một cách rõ
nét khuynh hướng nhập thế trong tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân Tông.
Khuynh hướng này khuyến khích con người sống “tốt đời, đẹp đạo”, cứu
nhân độ thế bằng chính những việc làm có ích với đời. Song, ở Trần Nhân
Tông, tư tưởng “cư trần lạc đạo” không chỉ bộc lộ bằng lời nói, văn thơ
mà còn chứng tỏ bằng cả cuộc đời vì dân, vì nước của mình.
Trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông (1285, 1287), Trần
Nhân Tông đã trở thành ngọn cờ đoàn kết nhân dân cả nước, cùng chia ngọt
sẻ bùi với nhân dân. Nguyễn Đăng Thục đã viết: “Huống chi lòng vua yêu
nước, quên mình, trong lúc hoạn nạn đã cùng với bình dân chia miếng cơm
hẩm, lại khéo biết khích lệ các tướng sỹ; như cảnh ngộ khi quân Thoát
Hoan rầm rộ tràn sang qua cửa Chi Lăng, quan quân ta đánh ở Vạn Kiếp.
Vua ngự chiếc thuyền nhẹ đi Hải Đông, đã muộn mà chưa ăn sáng, tiểu tốt
Trần Lai dâng bát cơm hẩm, vua khen là trung”[31].
Chính tinh thần ấy là sức mạnh khiến cho vua tôi một dạ, vượt qua gian
nan, thử thách chung lưng đấu cật giữ vững nền độc lập của nước nhà.
- Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu(Xã tắc hai lần phiền ngựa đá
Non sông nghìn thủa vững âu vàng)[32]
Hai câu thơ trên đã ghi lại chiến công oanh liệt của dân tộc ta trước
kẻ thù hung bạo, đồng thời cũng là minh chứng cho tấm lòng yêu nước,
thương dân của Trần Nhân Tông – vị vua anh hùng của non sông Đại Việt.
Khi đất nước thái bình, không còn bóng quân thù, Trần Nhân Tông đã
chủ trương “khoan thư sức dân”, chăm lo phát triển kinh tế, mở rộng diện
tích đất canh tác, xây dựng các công trình thủy lợi phục vụ nông
nghiệp, miễn giảm thuế cho nhân dân… Ông luôn căn dặn quan lại phải biết
thương dân, phải trân trọng những đóng góp của nhân dân đối với đất
nước. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Vua từng ngự chơi bên ngoài,
giữa đường gặp gia đồng của các vương hầu, tất gọi rõ tên mà hỏi: “Chủ
mày đâu?” và răn các vệ sĩ không được thét đuổi. Khi về cung, vua bảo
các quan hầu cận rằng: “Ngày thường có kẻ hầu cận hai bên, đến nhà nước
hoạn nạn thì chỉ có bọn ấy đi theo thôi”[33].
Rõ ràng sự quan tâm và tình nghĩa của Nhân Tông đã hướng đến với những
con người có thân phận thấp hèn nhất trong xã hội, ghi nhớ những công
lao của họ. Ngô Thời Sĩ bàn rằng: “Khi nước rút thì bờ bến hiện ra, gặp
vận cùng thì lòng tiết nghĩa mới rõ rệt. Khi vô sự và khi lâm nạn, hoàn
cảnh khác mà lòng người thường thay đổi, mới biết những kẻ khéo nói, sốt
sắng không bằng người thật thà chất phác mà chuyên nhất. Hai lần đánh
quân Nguyên, trèo non, lội biển, gối giáo nằm sương thật là công lao của
chư thần, yêu người mà yêu lây cả chim quạ đậu nóc nhà, quen mặt nhớ
tên, gặp ở đường cũng ân cần thăm hỏi, có tình chủ bộc thân yêu nhau.
Vua Nhân Tông như thế thật là khoan hậu”[34].
Bởi lo cho đất nước nên Trần Nhân Tông không chỉ nghiêm khắc với bản
thân và quần thần mà với cả vị vua kế thừa. Ông không ngừng khuyên bảo
vua Anh Tông tu dưỡng tâm tính, kìm bớt lòng dục, xa rời tửu sắc, gìn
giữ chân tâm… xứng đáng trở thành đấng minh quân có thể mang lại cuộc
sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Vậy nên, có lần vua Anh Tông uống
rượu xương bồ say quá, Trần Nhân Tông cả giận, trở về Thiên Trường,
xuống chiếu cho các quan ngày mai đều phải đến họp để điểm mục, ai trái
thì xử tội. Anh Tôn tỉnh dậy, sợ sệt phải nhờ Đoàn Nhữ Hài soạn bài biểu
tạ tội. Nhân Tông xem xong mới cho gọi vua vào và bảo rằng: “Trẫm còn
có con khác, cũng có thể nối ngôi được, trẫm còn sống mà người còn dám
làm như thế, huống chi sau này”[35].
Rời kinh thành, xa cuộc sống ồn ào, náo nhiệt, Trần Nhân Tông lên Yên
Tử, những tưởng sau khi xuất gia, ông nhìn mùa xuân trôi qua một cách
bình thản như hình ảnh “ngắm cánh hồng từ chiếu thiền” mà ông viết trong
bài Xuân muộn:
- Niên thiếu hà tằng liễu sắc không
Nhất xuân tâm sự bách hoa trung
Như kim khám phá Đông Hoàng diện
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng(Tuổi trẻ chưa từng hiểu sắc không
Xuân sang hoa nở rộn tơ lòng
Chúa xuân nay đã thành quen mặt
Trên chiếu thiền xem rụng cánh hồng)[36]
Vậy nhưng, từ đỉnh Yên Tử, Trần Nhân Tông luôn canh cánh nỗi lo cho
dân, cho nước, ông vẫn đóng một phần quan trọng trong đời sống chính trị
của nhà Trần. Để thống nhất tư tưởng trong nhân dân tạo cơ sở cho sự
đoàn kết – yếu tố sống còn của dân tộc, Trần Nhân Tông đứng ra thành lập
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử (một thiền phái hoàn toàn mang màu sắc Việt
Nam). Ông cũng thể hiện một tầm nhìn chiến lược khi chọn và đào tạo
người lãnh đạo kế tục là ngài Pháp Loa. Nền Phật giáo mà Trần Nhân Tông
thiết định là nền Phật giáo nhập thế, phục vụ dân tộc và xây dựng một xã
hội đạo đức, lành mạnh. Theo Tam tổ thực lục, ông đã vân du khắp
nơi để rao giảng Phật pháp, dạy dân thực hành mười điều thiện, bao gồm:
không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói
lời chia rẽ, không nói lời độc ác, không nói lời bẩn thỉu, không tham
lam, không giận dữ, không tà kiến. Việc làm đó của Nhân Tông đã đưa Phật
giáo đến hang cùng, ngõ hẻm hầu kêu gọi mọi người hướng đến chân lý,
tránh xa mọi điều tội lỗi… Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam
viết: “Hẳn là Nhân Tông muốn tiếp chí ông nội là vua Thái Tông xưa đã
tìm cách dẫn dắt dân chúng từng bước tin vào Phật, tự mình tìm biết rõ
mình qua tụng niệm. Như vậy, việc hướng vào tâm để thấy tính, và nay
trong hành động cụ thể, bằng mười điều thiện, để xây dựng trong nhân dân
một đạo đức xã hội lành mạnh trên nền tảng đạo đức Phật giáo là ước
nguyện của ông”[37].
Năm 1301, Trần Nhân Tông sang tận Chiêm Thành để thiết lập quan hệ
bang giao, ông cũng hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế
Mân. Là một Thiền sư thân ở cửa Phật lại trở thành sứ giả và đi làm việc
mai mối, hành động đó của Trần Nhân Tông đã bị nhiều Nho sỹ phê phán.
Sử thần Ngô Sĩ Liên viết: “Ngày xưa Hán Cao Hoàng vì nước Hung Nô thường
quấy phá biên giới, mới lấy con gái của dân làm công chúa gả cho Thiền
Vu, kết hôn với người không phải giống nòi, các tiên nho đã từng chê.
Song có ý muốn nghỉ bình yên dân thì còn có thể nói được. Như Nguyên đế
nhân Hồ Hàn (tức Hồ Hàn Da, tên vua Hung Nô) đến chầu xin làm rể nhà Hán
mà đem Vương Tường gả cho, cũng là có cớ. Còn như Nhân Tông đem con gái
gả cho vua nước Chiêm Thành là nghĩa gì? Nói rằng nhân đi chơi mà chót
hứa gả, sợ thất tín thì sao không làm việc đổi mệnh, có được không? Vua
giữ ngôi trời mà thượng hoàng đã xuất gia rồi, vua đổi mệnh thì có khó
gì, mà lại đem gả cho người xa không phải giống nòi cho đúng lời hẹn
trước, rồi lại dùng mưu gian trá cướp lại về sau, thế thì tin ở đâu?”[38].
Đó chỉ là sự nhìn nhận khắt khe, hẹp hòi của một số tri thức phong
kiến, từng là người đứng đầu của chế độ quân chủ nhưng Trần Nhân Tông có
con mắt hết sức phóng khoáng. Hành động của ông không những thể hiện tư
tưởng “bình đẳng về con người” (không phân biệt kỳ thị đối với người
Chiêm – lúc bấy giờ được coi là dân man di), mà còn thể hiện rõ nét tấm
lòng vì dân, vì nước. Bởi cuộc hôn nhân giữa công chúa Huyền Trân và vua
Chế Mân của nước Chiêm đã tạo cơ sở cho quan hệ hữu nghị, hòa bình giữa
hai nước, cùng nhau đoàn kết để phòng ngừa mối họa xâm lăng từ phương
Bắc. Cũng từ đây non sông Đại Việt đã có thêm hai vùng đất rộng lớn là
châu Ô và Rí mà không tốn một hòn tên, mũi đạn. Công lao đó của Trần
Nhân Tông thật to lớn lắm thay.
Tóm lại, dù ở nơi trần tục trên ngôi cao chín bệ hay ở đỉnh
Yên Tử với cuộc sống thanh tao, đạm bạc, nhưng tư tưởng và hành động của
Trần Nhân Tông đều thể hiện khuynh hướng nhập thế hết sức tích cực.
Cuộc đời của ông là ngọn đèn Thiền sáng nhất soi lối cho chúng sinh tới
bến bờ giác ngộ, vì bất kể tăng hay tục, đời hay đạo, chẳng câu nệ hình
thức, chỉ cần có tấm lòng hướng thiện, vì dân vì nước thì sẽ tìm ra chân
lý giải thoát. Đã 701 năm kể từ khi Phật hoàng Trần Nhân Tông tạ thế,
tìm đến với cõi Phật, thời gian không ngừng trôi, mọi nhân vật, sự kiện
sẽ lùi dần về quá khứ, song, hình ảnh của Trần Nhân Tông vẫn tỏa sáng
một cách rực rỡ. Tư tưởng Phật giáo của ông đã góp phần tạo nên sức mạnh
to lớn trong chính mỗi con dân Đại Việt, làm nên lẽ sống cao quý của
thời đại – một thời đại Phật giáo với bao kỳ tích to lớn gắn liền với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Nguyễn Quỳnh Anh
CN. Luật – Ths.NCS Triết học
Hướng nghiên cứu: Logic hình thức, Lịch sử Triết học phương Tây
[1] Nguyễn Như Ý (Chủ biên): Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1998, tr.1875.
[2] Sđd, tr.1243.
[3] Nhiều tác giả, Phật giáo trong thời đại chúng ta, Nxb Tôn giáo, Thành phố Hồ Chí Minh, 2005, tr.8.
[4] Đào Duy Anh, Nhớ nghĩ chiều hôm, Hồi ký, Nxb. Trẻ, 1989, tr.193 – 194.
[5] Đại Việt Sử ký toàn thư, Tập 1, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2004, tr.493.
[6] Xem: Trần Văn Giàu, Mấy ý kiến sơ bộ về nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam, Thông báo Triết học, số 7, tháng 12/1967.
[7] Nguyễn Hùng Hậu (Chủ biên), Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, Tập 1, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2002, tr.16.
[8] Trương Hữu Quýnh (Chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam, Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2005, tr.217.
[9] Đại Việt Sử ký toàn thư, Sđd, tr.554 – 555.
[10] Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, Sđd, tr.164.
[14] Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 4, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992, tr.147.
[15] Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (Viện Triết học), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991, tr.256.
[17] Cư trần lạc đạo phú, trích từ tác phẩm Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999 của tác giả Nguyễn Duy Hinh, tr. 617.
[18] Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, Sđd, tr.165.
[19] Cư trần lạc đạo phú, sđd, tr. 615
[20] Sđd, tr.616.
[21] Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, Sđd, tr.165.
[22] Cư trần lạc đạo phú, sđd, tr. 615
[23] Sđd, tr. 616.
[24] Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Sđd, tr.254.
[26] Cư trần lạc đạo phú, sđd, tr. 624.
[27] Phật giáo trong thời đại chúng ta, Sđd, tr.14.
[31] Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Sđd, tr.246.
[32] Đại Việt Sử ký toàn thư, Sđd, tr.523.
[33] Đại Việt Sử ký toàn thư, Sđd, tr.532.
[35] Xem: Đại Việt Sử ký toàn thư, Sđd, tr.544 – 545.
[37] Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, Sđd, tr.133.
[38] Đại Việt Sử ký toàn thư, Sđd, tr. 567 – 568.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét