Thứ Tư, 6 tháng 11, 2013

Khuynh hướng nhập thế trong tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân Tông

Nguyễn Quỳnh Anh                                                              
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, xuất thế là “lánh đời, lui vào ở ẩn hoặc đi tu, không tham gia hoạt động xã hội nữa”[1] còn nhập thế là “gánh vác việc đời, không xa lánh cõi đời”[2]. Trước nay, nhiều người vẫn định kiến rằng Phật giáo là một tôn giáo xuất thế, bởi bản thân Phật giáo không chủ trương tham gia và giải quyết các vấn đề chính trị – xã hội, mà dành công việc đó cho các các tôn giáo khác. Ra đời trong một xã hội phân biệt đẳng cấp khắc nghiệt với những đau thương, hờn tủi, “nước mắt chúng sinh nhiều hơn biển cả”, song con đường giải thoát của Phật giáo không phải là hoạt động thực tiễn nhằm cải tạo tình trạng hiện tồn mà là tu luyện để đạt tới cảnh giới niết bàn, không còn vui – buồn, sướng – khổ.

Tuy nhiên, đây chỉ là một cách tiếp cận thiếu tính lịch sử, trong quá trình phát triển của mình, không phải lúc nào Phật giáo cũng xa lánh cõi đời, không liên quan tới các vấn đề chính trị – xã hội. Sự nhập thế của Phật giáo đã được minh chứng bằng nhiều hoạt động mang đầy tính nhân văn và có ý nghĩa thiết thực. Trong thời đại Lý – Trần ở Việt Nam, vai trò của Phật giáo đã thật sự tỏa sáng, gắn bó chặt chẽ với vận mệnh của dân tộc, với những thành tựu văn hóa rực rỡ và chiến công oanh liệt. Đề cập vấn đề này, trong bài Phật giáo Việt Nam thế kỷ XXI, nhà nghiên cứu Phật học Minh Chi đã viết: “Thời đại Lý – Trần cung cấp cho chúng ta mô hình một Phật giáo gắn bó với dân tộc và phục vụ dân tộc, mà vẫn không làm tổn thương gì đến chân giá trị tâm linh của đạo… Ai bảo chỉ có đạo Khổng mới lo được cho dân cho nước, còn đạo Phật chỉ lo chuyện niết bàn và âm phủ? Ai bảo đạo Phật chỉ lo chuyện người chết và thế giới bên kia, còn đạo Khổng mới thật sự lo chuyện người sống và chuyện đời nay? Đạo Phật Lý – Trần đã dứt khoát trả lời vấn đề này của Tống Nho, và trả lời bằng thực tế của những thành tích dựng nước và giữ nước chói lọi”[3].
Cũng vào thời đại Lý – Trần, có những vị vua đã hướng mình theo Phật, xuất gia và trở thành các bậc chân tu; trong đó nổi bật lên là vua Trần Nhân Tông – vị tổ thứ nhất của Thiền phái Trúc Lâm. Là một đấng minh quân, rồi là một thiền sư, Trần Nhân Tông đã “gắn đạo và đời”, đưa Phật giáo tham gia vào đời sống xã hội, vào sự nghiệp chung của cả dân tộc. Chính bởi vậy, Giáo sư Đào Duy Anh dù trước đó nhìn nhận về Phật giáo như một tôn giáo bi quan, yếm thế; nhưng khi nghiên cứu lịch sử thời kỳ Lý – Trần đã phải thốt lên: “Trần Thái Tông là vua sáng nghiệp nhà Trần, lại là tác giả sách Khóa hư Lục, là tác phẩm tiêu biểu của Thiền tông ở thời Trần, và Trần Nhân Tông là vị vua anh hùng của nhà Trần mà lại là Tổ thứ nhất của phái Trúc Lâm trong Thiền Tông Việt Nam, cả hai người đều kết hợp một cách tốt đẹp hoạt động tu hành và hoạt động kinh bang tế thế”[4].
Vua Trần Nhân Tông (tên thật là Trần Khâm – con trưởng của Thánh Tông Trần Hoảng) sinh vào ngày 11 tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 8 (1258). Khi sinh ra được mô tả như “được tinh anh của thánh nhân, đạo mạo thuần túy, nhan sắc như vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng, hai cung đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên đồng tử, vai bên tả có nốt ruồi đen, cho nên có thể cáng đáng được việc lớn”[5]. Trong hai lần chống xâm lược Nguyên Mông (1285, 1287) – đội quân hùng mạnh bậc nhất thế giới thời bấy giờ, Trần Nhân Tông đã lãnh đạo nhân dân Đại Việt vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi huy hoàng. Năm 1293, Nhân Tông nhường ngôi cho Anh Tông và tự mình làm thái thượng hoàng. Năm 1295, ông xuất gia tại Vũ Lâm, sau đó lại trở về; tới năm 1299, mới chính thức vào tu ở núi Yên Tử và khai sinh ra Thiền phái Trúc Lâm. Vua Trần Nhân Tông từ trần năm 1308 tại am Ngọa Vân, núi Yên Tử. Tuy chỉ sống trên nhân gian vỏn vẹn 50 năm, nhưng ông đã để lại cho hậu thế tấm gương của một hiền nhân hết lòng vì dân, vì nước, một bậc chân tu với những triết lý vừa huyền diệu, vừa gần gũi với cuộc đời.


Tìm hiểu khuynh hướng nhập thế trong tư tưởng Phật giáo Trần Nhân Tông phải bắt đầu từ việc tìm hiểu tư tưởng của ông, để thấy rằng tư tưởng đó gần gũi với đời, với cõi trần tục. Song, đây không phải là một điều dễ dàng, vì hầu hết những tác phẩm mà Trần Nhân Tông viết được sử sách ghi chép lại như Thiền lâm thiết chủy ngữ lục, Trúc lâm hậu lục, Đại Hương hải ấn thi tập, Tăng già toái sự, Thạch thất mị ngữ đã thất tán; chỉ còn lại một số bài thơ, văn và ngữ lục được chép rải rác đó đây trong Thánh đăng ngữ lục, Việt âm thi tập, Toàn Việt thi lục, Thiền tông bản hạnh… Do đó, một vấn đề có tính phương pháp luận cần phải chú ý khi nghiên cứu tư tưởng Trần Nhân Tông (cũng là vấn đề phương pháp luận để nghiên cứu tư tưởng Việt Nam) đó là không chỉ căn cứ vào các tác phẩm mà còn quan tâm đến hành động. Giáo sư Trần Văn Giàu từng khẳng định “có các tác phẩm nói lên tư tưởng mà cũng có hành vi, thái độ, hoạt động cá nhân hay tập thể nói lên tư tưởng”[6]. Các tác giả của tác phẩm Đại cương Lịch sử tư tưởng Triết học Việt Nam cũng viết: “… ở Việt Nam, các vĩ nhân, anh hùng dân tộc, thậm chí các nhà hiền triết, minh triết thường viết rất ít. Đối với họ chủ yếu là hành động, hoạt động nhằm ích nước, lợi dân, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc. Bởi vậy, chỉ dựa vào câu chữ của họ mà nói lên tư tưởng của họ e rằng không đầy đủ, hoàn chỉnh. Tư tưởng của họ, nó bàng bạc ở khắp mọi nơi, trong hành vi, trong đối nhân xử thế, trong toàn bộ cuộc đời của họ”[7]. Vấn đề cần chú ý tiếp theo khi nghiên cứu tư tưởng Phật giáo Trần Nhân Tông là việc phải quan tâm đến tư tưởng, hành động của ông cả trước và sau khi xuất gia. Sở dĩ như vậy vì ngay từ khi là một thái tử, là vua và sau đó là thái thượng hoàng, Trần Nhân Tông đã một lòng kính Phật, học tập và nghiên cứu Phật giáo. Theo Thánh đăng ngữ lục, ông từng từ chối ngôi vị Thái tử và có lần rời gác son, điện ngọc tìm vào núi Yên Tử để tu hành làm cả triều đình lo lắng tìm kiếm. Vì thế nên dù chưa xuất gia nhưng tư tưởng, hành động của Trần Nhân Tông đã thấm nhuần triết lý nhà Phật.
Sự hình thành của bất cứ một học thuyết nào cũng là kết quả của sự tương tác giữa yếu tố khách quan và nhân tố chủ quan. Đó là sự phản ánh điều kiện sinh hoạt của xã hội đương thời; sự kế thừa, chắt lọc những tinh hoa văn hoá của nhân loại và sau cùng khúc xạ qua lăng kính của cá nhân nhà tư tưởng. Tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân Tông cũng không nằm ngoài quy luật đó. Lúc bấy giờ, đế chế Nguyên Mông với tham vọng bành trướng đã thổi ngọn lửa chiến tranh đi khắp thế giới. Biên niên sử của tu viện thánh Pantalênon ở Côlôn đã viết: “Nỗi sợ hãi trước quân dã man lan tận các xứ xa xôi, không những ở Pháp mà ở Buốcgông và Tây Ban Nha, là những nơi mà từ trước tới nay chưa hề biết đến cái tên Tácta”[8]. Đối với Đại Việt, sau thất bại lần thứ nhất vào năm 1258, quân Nguyên Mông vẫn nuôi hận, chúng liên tục sách nhiễu và gây sự hòng tìm cớ tiến công xâm lược. Mô tả điều này, trong Hịch tướng sỹ, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã viết: “thấy sứ giặc qua lại, nghênh ngang ngoài đường, khua tấc lưỡi cú vọ mà làm nhục triều đình, lấy cái thân chó dê mà ngạo mạn tể tướng, thác lệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để thỏa lòng tham vô cùng; giả danh Vân Nam Vương mà đòi bạc vàng để kiệt của kho có hạn! Ví như ném thịt cho hổ đói, thế nào mà khỏi mối lo sau?”[9]. Là một người mộ đạo nhưng Trần Nhân Tông cũng là một vị vua, hơn nữa lại là một vị vua yêu nước, ông nhận rõ những nguy cơ đối với sự tồn vong của dân tộc. Khi chiến tranh nổ ra, ông đã cùng với quân dân nếm mật, nằm gai, chiến đấu oanh liệt cho đến ngày toàn thắng.
Từ thực tế đó, tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân Tông đã thể hiện khuynh hướng nhập thế tích cực với mục đích cứu nhân độ thế, giải thoát chúng sinh bằng hành động thực tế là bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc, tránh cho nhân dân khỏi cảnh cửa nát, nhà tan, lầm than, đau khổ. Sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm chính là kết quả của những nỗ lực đưa Phật giáo sát cánh cùng dân tộc, trở thành hệ tư tưởng chủ đạo của xã hội. Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam đã ghi: “Sự hình thành thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là hệ quả, logic tất yếu để tiếp nối và hoàn tất sự nghiệp vang dội ở bến Chương Dương, cửa Hàm Tử, sông Bạch Đằng”[10].
Về mặt lý luận, Trần Nhân Tông là người tinh thông Tam giáo (Nho, Phật, Lão), song có thể nói tư tưởng Phật giáo của ông chủ yếu được hình thành trên cơ sở tiếp thu tinh hoa của Thiền học, đặc biệt là quan niệm “tức Tâm tức Phật”. Quan niệm này đã được Quốc sư Trúc Lâm sử dụng để thức tỉnh Trần Thái Tông (ông nội của Trần Nhân Tông) khi ông chán nản cuộc đời, muốn tìm vào núi rừng, nương nhờ cửa Phật: “Trong núi vốn không có Phật, Phật chỉ ở trong tâm. Tâm lặng mà biết gọi là chơn Phật. Nay Bệ hạ nếu ngộ tâm này thì tức khắc thành Phật, không nhọc tìm cầu bên ngoài”[11]. Sau này, trong Khóa hư lục, chính Trần Thái Tông đã viết: “Ngã thân tức Phật thân thị, vô hữu nhị tướng” (Thân ta tức là thân Phật, không có hai tướng) hay “Khái thức Bồ đề giác tính, cá cá viên thành” (sao lại không biết tính giác Bồ đề, mọi người đều có đầy đủ). Điều này có nghĩa rằng, Phật không ở đâu xa mà ở trong tâm mỗi con người, không tách biệt thành hai, mọi chúng sanh ai nấy đều có đầy đủ bản tánh giác ngộ. Ông cũng khẳng định: “Mạc vấn đại ẩn tiểu ẩn, hưu biệt tại gia xuất gia, bất câu tăng tục, chủ yếu biện tâm, bổn vô nam nữ, hà tu trước tướng” (Không kể là ẩn dật lớn hay nhỏ, không kể là tại gia hay xuất gia, tăng hay tục, điều cốt yếu là biện tâm, vốn không phân biệt nam nữ, sao lại còn chấp tướng)[12]. Bởi “Phật tại tâm” nên chớ câu nệ điều gì, mọi con đường đều có thể dẫn đến giải thoát, quan trọng là con người biết quay về với bản tánh vốn có của mình.
Tiếp nối tư tưởng của Trần Thái Tông, trong bài Tự thuật Trần Thánh Tông viết:
    Nhận đắc bản lai chân diện mục
    Đáo đầu hà xứ bất hưu hưu[13]
Nguyễn Đăng Thục đã dịch nghĩa: “Nhận ra được cái bộ mặt chân thật vốn có bản nhiên của mình, không lầm với cái sai lạc thì bất cứ hoàn cảnh nào mà chẳng thung dung trong lòng”[14]. Điều đó cũng có nghĩa rằng dù ở bất cứ nơi đâu, cõi trần tục ồn ào náo nhiệt hay nơi thâm sơn, cùng cốc nhưng nếu biết giữ tâm trong sáng, con người vẫn sẽ tìm thấy được tính Phật, “chân diện” của bản thân.
Dòng suối Thiền huyền diệu đã chảy từ Trần Thái Tông qua Trần Thánh Tông để đến với Trần Nhân Tông. Song bên cạnh đó, Trần Nhân Tông còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp bởi tư tưởng của Tuệ Trung Thượng sỹ. Sự gặp gỡ giữa Trần Nhân Tông và Tuệ Trung Thượng sỹ là nhân duyên lớn để đưa tư tưởng Phật giáo của Nhân Tông lên một bước tiến mới, đi vào vùng trời giải thoát bao la. Tuệ Trung khẳng định rằng “TÂM VẠN PHÁP = TÂM PHẬT = TÂM TA”[15], trong Phật tâm ca, ông viết:
    Vạn pháp chi tâm tức Phật tâm
    Phật tâm khước dữ ngã tâm hợp
    Pháp nhĩ như nhiên hoàn cổ kim
    (Tâm của vạn pháp là tâm của Phật
    Tâm của Phật lại phù hợp với tâm của ta
    Cái phép đó vẫn tự nhiên như vậy từ xưa đến nay)[16]
Với tư tưởng trên, Tuệ Trung đã nêu lên một nguyên tắc muốn đến với Phật thì phải đưa tâm ta phù hợp với tâm vạn pháp. Tâm vạn pháp ở đây chính là thế giới hiện tượng xung quanh con người với sự phức tạp và đa dạng vốn có của nó. Con đường giải thoát mà Tuệ Trung đề cập là hòa vào đời, lấy cuộc đời làm môi trường để tu luyện. Theo ông, đạo và đời không tách rời nhau, đời cũng là đạo mà đạo cũng là đời. Trong bài Dưỡng chân, Tuệ Trung viết: Hải giới thiên đầu thị dưỡng chân (Góc bể chân trời cũng là nơi nuôi dưỡng chân tính của ta). Điều đó cũng chẳng có gì là lạ giống như hoa sen nở trong lò lửa cuộc sống “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.

Như vậy, tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân Tông được hình thành từ sự phản ánh hoàn cảnh xã hội Đại Việt lúc bấy giờ và sự kế thừa dòng chảy Thiền, đặc biệt là tư tưởng của các bậc tiền nhân như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Tuệ Trung Thượng sỹ. Trên cơ sở đó, Trần Nhân Tông đã diễn tả quan niệm “tức Tâm tức Phật” (quan niệm cơ bản của Thiền học) với một sắc thái mới:
    Bụt ở trong nhà,
    Chẳng phải tìm xa,
    Nhân khuẩy bản nên ta tìm Bụt.
    Đến cốc hay chỉn Bụt là ta[17].
Chúng sinh thường lầm tưởng rằng muốn giải thoát phải xa lánh cuộc sống trần tục đầy bụi bặm để tìm đến chốn thiêng liêng tu hành, cõi Phật được hình dung như một nơi nào đó xa xăm, trừu tượng, khó đạt đến. Song, Trần Nhân Tông cho rằng “Bụt ở trong nhà”, tồn tại trong chính bản thân con người, trong chính thế giới hiện tượng này chứ không phải ở tầng trời mông lung nào đó, “Nói theo danh từ triết học thì cái tuyệt đối nằm trong cái tương đối, cái tương đối chứa đựng cái tuyệt đối. Chân Như, Niết bàn, Bồ đề, Chân tâm, Phật không phải ở đâu xa mà nằm ngay trước mắt”[18]. Bởi vậy, sẽ là hoài vọng nếu cứ mải mê tìm Phật ở những chốn xa xôi. Tục ngữ ta có câu: “Phật ở trong nhà mà lại cầu Thích Ca ngoài đường”, chỉ tại “khuẩy bổn” nên mới đi tìm Phật, đâu hay rằng “Bụt chính là ta”, thành Phật là thành ngay trong tâm, chứ không phải thành ở trên núi cao, rừng sâu. Do vậy, chỉ cần quay đầu nhìn lại chính mình thì sẽ đến được bến bờ của sự giác ngộ.
Bên cạnh những khái niệm “Chân như, Bồ Đề giác tính…”, Trần Nhân Tông đã đưa ra khái niệm “lòng”, “tính sáng” để nói đến tâm Phật của con người, ông khẳng định:
    Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương;
    Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc[19]
Con đường giải thoát mà Trần Nhân Tông đề xướng là làm cho lòng trong sạch, giữ gìn tính sáng chứ không cần “ngờ hỏi Tây Phương” hay “tìm về Cực lạc”, ông lại viết:
    Gìn tính sáng, mựa lạc tà đạo
    Sửa mình học, cho phải chính tông
    Chính Bụt là lòng, xá ướm hỏi đòi cơ Mã tổ[20]
Trần Nhân Tông chủ trương tìm Phật ngay trong cuộc sống hiện tại, sống giữa đời mà vui với đạo (cư trần lạc đạo). Mấu chốt của vấn đề ở đây là “chân lý giải thoát”, mà chân lý ấy tồn tại ở khắp mọi nơi, nhất là trong cuộc đời trần tục. Cái tính sáng mà con người hằng mong mỏi nằm chính trong con người, trong thế giới trần tục cho nên “con người trần tục muốn đạt đến cái nằm trong thế giới trần tục… tốt nhất nên bằng con đường trần tục”[21], khi đó giá trị của sự giải thoát còn tăng lên gấp nhiều lần. Với Trần Nhân Tông, đạo và đời không có gì phân biệt dù ở “thành thị” gánh vác việc đời mà tấm lòng thanh tịnh thì cũng chẳng khác gì đang phiêu diêu tự tại chốn “sơn lâm”:
    Mình ngồi thành thị
    Nết dụng sơn lâm[22]
Vậy nên:
    Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc
    Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực cả uổng công[23]
Nguyễn Đăng Thục khẳng định: “Nhân Tông không chủ trương xuất thế để cầu giác ngộ. Trái lại muốn giác ngộ ngài đòi phải lấy cuộc đời nhân quần xã hội làm kinh nghiệm thử thách, từng trải mà giải thoát, chứ không trầm mặc tư tưởng”[24]. Đức Thế Tôn xưa kia phải trải qua trăm ngàn đau khổ, vượt mọi khó khăn mới thành chánh quả. Bản thân con người chẳng thể lấy việc lánh đời, từ chối mọi “hỉ, nộ, ái, ố” mà cuộc đời mang lại để hẹn tới kiếp sau. Trong bài giảng tại viện Kỳ Lân tháng giêng năm Bính Ngọ (1306), Trần Nhân Tông đã nói: “Này các người, thời gian dễ trôi qua, mạng người không dừng lại. Cớ sao ăn cháo ăn chay, mà không rõ việc cái bát, cái tô, chiếc thìa, đôi đũa để tìm hiểu?”[25]. Những cái giản dị xung quanh con người như “cái bát, cái tô, chiếc thìa, đôi đũa” mà không hiểu rõ, cũng như không hiểu rõ bản thân mình thì còn nói chi đến chuyện giác ngộ. Vì thế, ở cuối bài Cư trần lạc đạo, Trần Nhân Tông đã nêu lên nguyên tắc tu hành của mình:
    Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên
    Đói đến thì ăn mệt ngủ liền
    Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
    Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền[26].
Tinh thần “vui đạo tùy duyên” mà Trần Nhân Tông đưa ra đã khẳng định tính chất đại chúng của Phật giáo, tất cả mọi chúng sinh đều có thể theo đuổi con đường giải thoát ở mọi nơi, mọi lúc chứ không chỉ ở những nơi tu hành nghiêm trang, chẳng chút bụi trần. Đây chính là lối tu đại ẩn như nhà nghiên cứu Phật học Minh Chi đã khẳng định: “Phật giáo chỉ cho chúng ta một phương pháp tu hành không cần phải cạo đầu vào chùa, không cần lánh lên núi sống cô độc một mình mà sống ngay giữa đời như người bình thường mà vẫn có thể giác ngộ và giải thoát”[27].
Theo Trần Nhân Tông, tu ở giữa đời thì phải giúp ích cho đời vì làm việc cho đời cũng là làm việc cho đạo. Trong bài thơ Thân như, ông viết:
    Thân như hô hấp tỵ trung khí,
    Thế tự phong hành lĩnh ngoại vân
    Đỗ quyên đề đoạn nguyệt như trú
    Bất thị tầm thường không quá xuân
    (Thân như hơi thở vào ra mũi
    Thế tựa gió luồn mây núi xa
    Đỗ quyên rền rĩ trăng ngày sáng
    Đừng để tầm thường xuân luống qua)[28]
Thời gian không bao giờ quay trở lại tựa như “đám mây bay theo gió ngoài núi xa”, tiếng chim quyên kêu ra rả như thúc đẩy con người hành động. Bởi thế, bài thơ trên của Trần Nhân Tông nhằm mục đích khuyên nhủ mọi người đừng bỏ phí ngày xuân, để ngày xuân trôi qua “một cách tầm thường”. Ông cho rằng sống mà không làm gì cho đời là điều đáng hổ thẹn:
    Sinh vô bổ thế trượng phu tàm
    Mã đầu phong tuyết trùng hồi thủ
    Nhãn để giang san thiểu trụ tham
    (Sống không giúp ích cho đời là điều đáng hổ thẹn của kẻ trượng phu
    Gió tuyết trước đầu ngựa, người lại trở về
    Non sông đầy trong đáy mắt, hãy dừng ngựa lại chốc lát)[29]
Hình ảnh “kẻ trượng phu” khiến ta liên tưởng đến mẫu người quân tử của Nho giáo với mục tiêu hướng đến là “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Sau này, Nguyễn Công Trứ trong bài Chí làm trai đã viết:
    Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc
    Nợ tang bồng vay trả, trả vay
    Chí làm trai nam, bắc, đông, tây
    Cho thỏa sức vẫy vùng trong bốn bể
    Nhân sinh thế thượng thùy vô nghệ
    Lưu đắc đan tâm chiếu hãn thanh[30]
Khát vọng làm trai quyết trả nợ non nước, phải “để danh gì với núi sông” mà Nguyễn Công Trứ (nhà Nho ở thế kỷ XIX) đề cập có lẽ cũng không khác tư tưởng của Trần Nhân Tông – một ông vua Phật – ở trước đó sáu thế kỷ.
Có thể nói, những nội dung trình bày ở trên đã thể hiện một cách rõ nét khuynh hướng nhập thế trong tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân Tông. Khuynh hướng này khuyến khích con người sống “tốt đời, đẹp đạo”, cứu nhân độ thế bằng chính những việc làm có ích với đời. Song, ở Trần Nhân Tông, tư tưởng “cư trần lạc đạo” không chỉ bộc lộ bằng lời nói, văn thơ mà còn chứng tỏ bằng cả cuộc đời vì dân, vì nước của mình.
Trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông (1285, 1287), Trần Nhân Tông đã trở thành ngọn cờ đoàn kết nhân dân cả nước, cùng chia ngọt sẻ bùi với nhân dân. Nguyễn Đăng Thục đã viết: “Huống chi lòng vua yêu nước, quên mình, trong lúc hoạn nạn đã cùng với bình dân chia miếng cơm hẩm, lại khéo biết khích lệ các tướng sỹ; như cảnh ngộ khi quân Thoát Hoan rầm rộ tràn sang qua cửa Chi Lăng, quan quân ta đánh ở Vạn Kiếp. Vua ngự chiếc thuyền nhẹ đi Hải Đông, đã muộn mà chưa ăn sáng, tiểu tốt Trần Lai dâng bát cơm hẩm, vua khen là trung”[31]. Chính tinh thần ấy là sức mạnh khiến cho vua tôi một dạ, vượt qua gian nan, thử thách chung lưng đấu cật giữ vững nền độc lập của nước nhà.
    Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
    Sơn hà thiên cổ điện kim âu
    (Xã tắc hai lần phiền ngựa đá
    Non sông nghìn thủa vững âu vàng)[32]
Hai câu thơ trên đã ghi lại chiến công oanh liệt của dân tộc ta trước kẻ thù hung bạo, đồng thời cũng là minh chứng cho tấm lòng yêu nước, thương dân của Trần Nhân Tông – vị vua anh hùng của non sông Đại Việt.
Khi đất nước thái bình, không còn bóng quân thù, Trần Nhân Tông đã chủ trương “khoan thư sức dân”, chăm lo phát triển kinh tế, mở rộng diện tích đất canh tác, xây dựng các công trình thủy lợi phục vụ nông nghiệp, miễn giảm thuế cho nhân dân… Ông luôn căn dặn quan lại phải biết thương dân, phải trân trọng những đóng góp của nhân dân đối với đất nước. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Vua từng ngự chơi bên ngoài, giữa đường gặp gia đồng của các vương hầu, tất gọi rõ tên mà hỏi: “Chủ mày đâu?” và răn các vệ sĩ không được thét đuổi. Khi về cung, vua bảo các quan hầu cận rằng: “Ngày thường có kẻ hầu cận hai bên, đến nhà nước hoạn nạn thì chỉ có bọn ấy đi theo thôi”[33]. Rõ ràng sự quan tâm và tình nghĩa của Nhân Tông đã hướng đến với những con người có thân phận thấp hèn nhất trong xã hội, ghi nhớ những công lao của họ. Ngô Thời Sĩ bàn rằng: “Khi nước rút thì bờ bến hiện ra, gặp vận cùng thì lòng tiết nghĩa mới rõ rệt. Khi vô sự và khi lâm nạn, hoàn cảnh khác mà lòng người thường thay đổi, mới biết những kẻ khéo nói, sốt sắng không bằng người thật thà chất phác mà chuyên nhất. Hai lần đánh quân Nguyên, trèo non, lội biển, gối giáo nằm sương thật là công lao của chư thần, yêu người mà yêu lây cả chim quạ đậu nóc nhà, quen mặt nhớ tên, gặp ở đường cũng ân cần thăm hỏi, có tình chủ bộc thân yêu nhau. Vua Nhân Tông như thế thật là khoan hậu”[34].
Bởi lo cho đất nước nên Trần Nhân Tông không chỉ nghiêm khắc với bản thân và quần thần mà với cả vị vua kế thừa. Ông không ngừng khuyên bảo vua Anh Tông tu dưỡng tâm tính, kìm bớt lòng dục, xa rời tửu sắc, gìn giữ chân tâm… xứng đáng trở thành đấng minh quân có thể mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Vậy nên, có lần vua Anh Tông uống rượu xương bồ say quá, Trần Nhân Tông cả giận, trở về Thiên Trường, xuống chiếu cho các quan ngày mai đều phải đến họp để điểm mục, ai trái thì xử tội. Anh Tôn tỉnh dậy, sợ sệt phải nhờ Đoàn Nhữ Hài soạn bài biểu tạ tội. Nhân Tông xem xong mới cho gọi vua vào và bảo rằng: “Trẫm còn có con khác, cũng có thể nối ngôi được, trẫm còn sống mà người còn dám làm như thế, huống chi sau này”[35].
Rời kinh thành, xa cuộc sống ồn ào, náo nhiệt, Trần Nhân Tông lên Yên Tử, những tưởng sau khi xuất gia, ông nhìn mùa xuân trôi qua một cách bình thản như hình ảnh “ngắm cánh hồng từ chiếu thiền” mà ông viết trong bài Xuân muộn:
    Niên thiếu hà tằng liễu sắc không
    Nhất xuân tâm sự bách hoa trung
    Như kim khám phá Đông Hoàng diện
    Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng
    (Tuổi trẻ chưa từng hiểu sắc không
    Xuân sang hoa nở rộn tơ lòng
    Chúa xuân nay đã thành quen mặt
    Trên chiếu thiền xem rụng cánh hồng)[36]
Vậy nhưng, từ đỉnh Yên Tử, Trần Nhân Tông luôn canh cánh nỗi lo cho dân, cho nước, ông vẫn đóng một phần quan trọng trong đời sống chính trị của nhà Trần. Để thống nhất tư tưởng trong nhân dân tạo cơ sở cho sự đoàn kết – yếu tố sống còn của dân tộc, Trần Nhân Tông đứng ra thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử (một thiền phái hoàn toàn mang màu sắc Việt Nam). Ông cũng thể hiện một tầm nhìn chiến lược khi chọn và đào tạo người lãnh đạo kế tục là ngài Pháp Loa. Nền Phật giáo mà Trần Nhân Tông thiết định là nền Phật giáo nhập thế, phục vụ dân tộc và xây dựng một xã hội đạo đức, lành mạnh. Theo Tam tổ thực lục, ông đã vân du khắp nơi để rao giảng Phật pháp, dạy dân thực hành mười điều thiện, bao gồm: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói lời chia rẽ, không nói lời độc ác, không nói lời bẩn thỉu, không tham lam, không giận dữ, không tà kiến. Việc làm đó của Nhân Tông đã đưa Phật giáo đến hang cùng, ngõ hẻm hầu kêu gọi mọi người hướng đến chân lý, tránh xa mọi điều tội lỗi… Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam viết: “Hẳn là Nhân Tông muốn tiếp chí ông nội là vua Thái Tông xưa đã tìm cách dẫn dắt dân chúng từng bước tin vào Phật, tự mình tìm biết rõ mình qua tụng niệm. Như vậy, việc hướng vào tâm để thấy tính, và nay trong hành động cụ thể, bằng mười điều thiện, để xây dựng trong nhân dân một đạo đức xã hội lành mạnh trên nền tảng đạo đức Phật giáo là ước nguyện của ông”[37].
Năm 1301, Trần Nhân Tông sang tận Chiêm Thành để thiết lập quan hệ bang giao, ông cũng hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân. Là một Thiền sư thân ở cửa Phật lại trở thành sứ giả và đi làm việc mai mối, hành động đó của Trần Nhân Tông đã bị nhiều Nho sỹ phê phán. Sử thần Ngô Sĩ Liên viết: “Ngày xưa Hán Cao Hoàng vì nước Hung Nô thường quấy phá biên giới, mới lấy con gái của dân làm công chúa gả cho Thiền Vu, kết hôn với người không phải giống nòi, các tiên nho đã từng chê. Song có ý muốn nghỉ bình yên dân thì còn có thể nói được. Như Nguyên đế nhân Hồ Hàn (tức Hồ Hàn Da, tên vua Hung Nô) đến chầu xin làm rể nhà Hán mà đem Vương Tường gả cho, cũng là có cớ. Còn như Nhân Tông đem con gái gả cho vua nước Chiêm Thành là nghĩa gì? Nói rằng nhân đi chơi mà chót hứa gả, sợ thất tín thì sao không làm việc đổi mệnh, có được không? Vua giữ ngôi trời mà thượng hoàng đã xuất gia rồi, vua đổi mệnh thì có khó gì, mà lại đem gả cho người xa không phải giống nòi cho đúng lời hẹn trước, rồi lại dùng mưu gian trá cướp lại về sau, thế thì tin ở đâu?”[38].
Đó chỉ là sự nhìn nhận khắt khe, hẹp hòi của một số tri thức phong kiến, từng là người đứng đầu của chế độ quân chủ nhưng Trần Nhân Tông có con mắt hết sức phóng khoáng. Hành động của ông không những thể hiện tư tưởng “bình đẳng về con người” (không phân biệt kỳ thị đối với người Chiêm – lúc bấy giờ được coi là dân man di), mà còn thể hiện rõ nét tấm lòng vì dân, vì nước. Bởi cuộc hôn nhân giữa công chúa Huyền Trân và vua Chế Mân của nước Chiêm đã tạo cơ sở cho quan hệ hữu nghị, hòa bình giữa hai nước, cùng nhau đoàn kết để phòng ngừa mối họa xâm lăng từ phương Bắc. Cũng từ đây non sông Đại Việt đã có thêm hai vùng đất rộng lớn là châu Ô và Rí mà không tốn một hòn tên, mũi đạn. Công lao đó của Trần Nhân Tông thật to lớn lắm thay.
Tóm lại, dù ở nơi trần tục trên ngôi cao chín bệ hay ở đỉnh Yên Tử với cuộc sống thanh tao, đạm bạc, nhưng tư tưởng và hành động của Trần Nhân Tông đều thể hiện khuynh hướng nhập thế hết sức tích cực. Cuộc đời của ông là ngọn đèn Thiền sáng nhất soi lối cho chúng sinh tới bến bờ giác ngộ, vì bất kể tăng hay tục, đời hay đạo, chẳng câu nệ hình thức, chỉ cần có tấm lòng hướng thiện, vì dân vì nước thì sẽ tìm ra chân lý giải thoát. Đã 701 năm kể từ khi Phật hoàng Trần Nhân Tông tạ thế, tìm đến với cõi Phật, thời gian không ngừng trôi, mọi nhân vật, sự kiện sẽ lùi dần về quá khứ, song, hình ảnh của Trần Nhân Tông vẫn tỏa sáng một cách rực rỡ. Tư tưởng Phật giáo của ông đã góp phần tạo nên sức mạnh to lớn trong chính mỗi con dân Đại Việt, làm nên lẽ sống cao quý của thời đại – một thời đại Phật giáo với bao kỳ tích to lớn gắn liền với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

 Nguyễn Quỳnh Anh
CN. Luật – Ths.NCS Triết học
Hướng nghiên cứu: Logic hình thức, Lịch sử Triết học phương Tây

[1] Nguyễn Như Ý (Chủ biên): Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1998, tr.1875.
[2] Sđd, tr.1243.
[3] Nhiều tác giả, Phật giáo trong thời đại chúng ta, Nxb Tôn giáo, Thành phố Hồ Chí Minh, 2005, tr.8.
[4] Đào Duy Anh, Nhớ nghĩ chiều hôm, Hồi ký, Nxb. Trẻ, 1989, tr.193 – 194.
[5] Đại Việt Sử ký toàn thư, Tập 1, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2004, tr.493.
[6] Xem: Trần Văn Giàu, Mấy ý kiến sơ bộ về nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam, Thông báo Triết học, số 7, tháng 12/1967.
[7] Nguyễn Hùng Hậu (Chủ biên), Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, Tập 1, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2002, tr.16.
[8] Trương Hữu Quýnh (Chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam, Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội,  2005, tr.217.
[9] Đại Việt Sử ký toàn thư, Sđd, tr.554 – 555.
[10] Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, Sđd, tr.164.
[14] Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 4, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992, tr.147.
[15] Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (Viện Triết học), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991, tr.256.
[17] Cư trần lạc đạo phú, trích từ tác phẩm Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999 của tác giả Nguyễn Duy Hinh, tr. 617.
[18] Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, Sđd, tr.165.
[19] Cư trần lạc đạo phú, sđd, tr. 615
[20] Sđd, tr.616.
[21] Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, Sđd, tr.165.
[22] Cư trần lạc đạo phú, sđd, tr. 615
[23] Sđd, tr. 616.
[24] Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Sđd, tr.254.
[26] Cư trần lạc đạo phú, sđd, tr. 624.
[27] Phật giáo trong thời đại chúng ta, Sđd, tr.14.
[29] Họa Kiều Nguyên Lãng vận, http://www.thivien.net/viewpoem.php?ID=24280
[31] Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Sđd, tr.246.
[32] Đại Việt Sử ký toàn thư, Sđd, tr.523.
[33] Đại Việt Sử ký toàn thư, Sđd, tr.532.
[35] Xem: Đại Việt Sử ký toàn thư, Sđd, tr.544 – 545.
[37] Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, Sđd, tr.133.
[38] Đại Việt Sử ký toàn thư, Sđd, tr. 567 – 568.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét