(TĐH: Bài này nói đến vài vấn đề nền tảng của
Tin Lành Việt Nam (đối với văn hóa Việt Nam).
Tin lành và Tin Lành Việt Nam có nhiều điều
tích cực, nhưng không thuộc phạm vi của bài
này. Cho nên các bạn đọc nên nhớ điều đó.)
Tin Lành Việt Nam (đối với văn hóa Việt Nam).
Tin lành và Tin Lành Việt Nam có nhiều điều
tích cực, nhưng không thuộc phạm vi của bài
này. Cho nên các bạn đọc nên nhớ điều đó.)
Tại
sao những cố gắng truyền giảng của Tin Lành Việt Nam có hiệu quả rất thấp so
với công sức bỏ ra?
Tác
giả Lê Anh Dũng
Kính gửi quí mục
sư, quí tín hữu và những người quan tâm tới Tin Lành Việt Nam,
1/
Vì sao có thư ngỏ này:
Khi xin việc ở Loyola
Marymount University, là một Catholic Universtity, vào website của trường này
tôi đọc được một core value của trường như sau:
“Faith
and Reason. We affirm our commitment to the faith that does justice,
which is rooted in our Jesuit and Marymount traditions. Further, we both
inherit and contribute to the ever-developing Catholic intellectual tradition
which views the pursuit of truth as an inherent good, emphasizes both the
harmony and creative tension between Faith and Reason, and embraces
ecumenical and Interfaith Dialogue“
(http://academics.lmu.edu/strategicplan/strategicplan2012-2020/strategicplantableofcontents/corevalues/)
(http://academics.lmu.edu/strategicplan/strategicplan2012-2020/strategicplantableofcontents/corevalues/)
Điều này làm tôi suy
nghĩ, cọng với những suy tư, trăn trở từ rất lâu, dẫn tới việc viết thư ngỏ này
để nêu lên những góp ý trong tinh thần đóng góp, xây dựng.
Ở đây tôi xin nhấn mạnh
là không có ý nói về sự tranh chấp giữa Công Giáo và Tin Lành; hay Ky-tô giáo
nói chung (Chính Thống, TL, CG, Anh Giáo …) với những tôn giáo khác. Tôi chỉ
chú trọng tới cách mà người Ky-tô hữu không phân biệt CG, TL cần lưu ý nếu muốn
rao giảng lời Chúa một cách hiệu qủa trong thế kỷ 21, khi mà hạn chế không gian
bị xoá nhoà, và sự hiểu biết của con người đã mở ra những cách nhìn thế giới,
vũ trụ và vạn vật xung quanh rất khác xưa. Thí dụ, ngày nay chỉ cần vài giờ để
băng qua quãng đường mà dân Do Thái cần 40 năm để vượt qua.
Ở đây tôi cần nói ra thật
rõ những xúc phạm, những tổn thương mà người Tin Lành VN đã, và đang tiếp tục
gây ra với những người khác niềm tin với mình trầm trọng như thế nào, dưới mắt
một người quan sát không có tôn giáo, nhưng có quan hệ gia đình mật thiết với
những người Tin Lành. Tôi nói với tư cách 1 người “giữa đường thấy việc bất
bình chẳng tha”, không nhân danh một người Công Giáo, hay Phật Giáo
chống lại Tin Lành. Nói ra không phải để chỉ trích, lên án; nhưng để cởi mở
những khúc mắc, để đóng góp vào sự thông cảm giữa người với người, tôn giáo với
tôn giáo.
Trong tôn chỉ của
trường Loyola Marymount University, họ nhìn rõ vấn đề xung khắc về Faith
and Reason, và vấn đề Interfaith Dialogue, đối thoại giữa những niềm
tin khác nhau.
Faith mà không reason từ
bất cứ tôn giáo nào cũng dễ dẫn tới cuồng tín, là mảnh đất mầu mỡ
cho ngu tối, tội ác phát triển.
Nếu không đặt ra vấn đề Interfaith
Dialogue, khi nói chuyện với người khác niềm tin với định kiến xấu
trong lòng là họ thờ những sự tăm tối, ma quỉ; khi không sẵn sàng lắng nghe,
tìm hiểu cái khác mình; khi chỉ thụ động thu nhận, rồi phát ra những điều mà
cha ông truyền lại theo 1 chiều duy nhất, thì nguời TLVN sẽ thường trực
có ác cảm, nhận định tiêu cực, nông cạn về những người khác mình
(như “người ngoại là người giả dối”, hay “người ngoại không có
standard đúng sai”… ). Điều này gây sứt mẻ, đổ vỡ trong quan hệ giữa người
với người, và là nguyên nhân cho bao nhiêu hậu qủa tệ hại, những chiến tranh
tôn giáo tàn bạo, đẫm máu chúng ta vẫn thấy trong suốt lịch sử nhân loại.
Ngay vào hôm nay, thế kỷ
21, hàng ngày tin tức thời sự vẫn loan tin về những bạo động, đổ máu liên quan
tới tôn giáo; và nhiều người trong chúng ta vẫn bình thản coi như đây là chuyện
của người khác, không xét lại phần mình.
2/ “Interfaith dialogue”? hay “Interfaith despise”? hay “Interfaith hate” ? Tôi nhiều lần nghe con cái của các vị mục sư, hay những tín hữu TL bình thường nói những lời có tính cách mạt sát, miệt thị đạo khác, kể cả với đạo Công Giáo là đạo có mẫu số chung với Tin Lành là thờ Thiên Chúa 3 ngôi. Đây là một điều thường gặp ở nhiều người Tin Lành VN dù là từ nơi chốn khác nhau, vì vậy ắt hẳn nó phải có 1 cội nguồn chung. Tin Lành VN mới có trên 100 năm, tìm lý do nguồn cội là chuyện có thể làm được.
2/ “Interfaith dialogue”? hay “Interfaith despise”? hay “Interfaith hate” ? Tôi nhiều lần nghe con cái của các vị mục sư, hay những tín hữu TL bình thường nói những lời có tính cách mạt sát, miệt thị đạo khác, kể cả với đạo Công Giáo là đạo có mẫu số chung với Tin Lành là thờ Thiên Chúa 3 ngôi. Đây là một điều thường gặp ở nhiều người Tin Lành VN dù là từ nơi chốn khác nhau, vì vậy ắt hẳn nó phải có 1 cội nguồn chung. Tin Lành VN mới có trên 100 năm, tìm lý do nguồn cội là chuyện có thể làm được.
Để về nguồn, tôi tìm đọc
đặc biệt những cuốn hồi ký của những mục sư tiên phong có những địa vị quan
trọng trong quá trình phát triển từ đầu của HTTLVN như Irving R. Stebbins
(cha), Thomas H. Stebbins (con), Lê Văn Thái… và may mắn được đọc cuốn Lịch sử
Hội Thánh Tin Lành VN (1911-1965) – từ đây sẽ viết tắt là LSHTTLVN – của
mục sư Lê Hoàng Phu, vốn giữ những nhiệm vụ lãnh đạo cao cấp nhất, quan trọng
nhất về mặt tổ chức cũng như huấn luyện của Hội Thánh TLVN. Ms Phu đã cung
cấp những thông tin giá trị, khả tín trong cuốn sách LSHTTLVN, vốn
là Luận án Tiến Sĩ của ông vào năm 1972 tại New York University, Hoa Kỳ.
Theo cuốn LSHTTLVN nêu
trên thì bản điều lệ đầu tiên viết vào năm 1928 cho HTTLVN đã được diễn tả như
1 áp đặt có tính cách độc đoán, chuyên quyền, được làm một cách không đàng
hoàng, khuynh đảo, trong sự vội vã của một nhóm rất nhỏ, chỉ gồm 5 mục sư
Mỹ, các mục sư VN hoàn toàn bị gạt ra ngoài việc lập bản điều lệ căn bản cho
HTTLVN. Đây là cách làm việc mang đậm tính thực dân tôn giáo, qua mặt và
coi thường trình độ người bản địa, có ảnh huởng quyết định và lâu dài tới
nay. Xin được dẫn khá dài, và ghi đậm những câu nôỉ bật.
“Điều
lệ của hội thánh năm 1928.
Trong
số những Điều lệ đề nghị đã từng được đệ trình, thảo luận, chấp nhận bởi các
Hội đồng TLH của HTTLVN trong 60 năm lịch sử, thì bản Điều lệ của năm
1928 là dài nhất, vơí những điều khoản tỉ mỉ từng chi tiết cho hầu
hết mỗi vấn đề có thể xảy ra trong HTTL ở đâu.
Dầu
Hội đồng TLH năm 1927 đã chỉ định một ban các mục sư Việt Nam để làm
việc chặt chẽ với uỷ ban giáo sĩ, nhưng khi làm việc, thì chỉ họp lại một
lần rất ngắn với thành phần sau mà thôi: Đó là J.D.
Olsen, E. F. Irwin, Wm. C. Cadman, J. I. Jeffrey, I. R. Stebbins“ (tr
149-150 LSHTTLVN).
“một Điều lệ chi
tiết phải được lãnh đạo Việt Nam dùng “như họ sử dụng Kinh thánh” và họ sẽ
“coi mọi sự trong đó như những luật lệ vững bền, cứng rắn”
”(tr 150 LSHTTLVN).
Và
“Để
tiếp xúc với vấn đề nhạy cảm đã từng đối đầu với Hội thánh đấng Christ tại
Đông Á – đối với cả người Công giáo lẫn Tin Lành – liên hệ đến sự
thờ cúng tổ tiên, bản Điều lệ ghi rõ rằng: Một thuộc viên HTTLVN phải: “dẹp
bỏ mọi hình tượng và thờ cúng tổ tiên” và “thôi không hành nghề bất xứng
đối với Tin Lành như “bán rượu, thuốc hút, hay những điều thuộc về sự
thờ hình tượng (sự thờ cúng tổ tiên được các giáo sĩ coi là một hình thức
khác của sự thờ hình tượng), ví như nhang đèn, tiền mã.” Trong một sự
trưng dẫn kỳ lạ, ủy ban Điều lệ rõ ràng chịu ảnh hưởng của mấy
giáo sĩ Mỹ có ý thức về chế độ nô lệ, cố thêm “tình trạng nô lệ” vào danh
sách nghề nghiệp không xứng đáng với Tin Lành. Sự trưng dẫn này ít có
ý nghĩa trong xã hội Việt Nam, nơi mà chế độ nô lệ thực tiễn không có” (tr
152 LSHTTLVN)
Từ sự dốt nát (ignorance)
về văn hoá, lịch sử, tôn giáo ở VN của những giáo sĩ tiên phong Mỹ vào
đầu thế kỷ 20; cùng sự tự tôn “Là người Mỹ, chúng tôi có mặc cảm tự tôn rất
cao” (tr 47, HVC của mục sư I. R. Stebbins, xem chú thích cuối bài), tinh
thần bất dung; cách làm việc không đàng hoàng, cả vú lấp miệng em các mục sư VN
của 5 mục sư Mỹ, người VN đã không có một cơ hội cất lên tiếng nói về văn
hóa VN, về phong tục thờ cúng tổ tiên, nên tinh thần và lời nói miệt thị
văn hoá VN để lại dấu ấn không hề phai cho người TLVN.
Trong hoàn cảnh thiếu
thông tin của năm 1928, những dàn xếp khuynh đảo hậu trường đã
không được quần chúng VN biết đến, nên bản Điều lệ năm 1928 do 5 giáo sĩ Mỹ
viết cho người Việt dùng, nhưng hoàn toàn không cho người Việt đóng góp ý kiến,
đã được quần chúng TLVN chấp nhận. Rồi từ thế hệ này qua thế hệ khác, quyện vào
những bản điều lệ viết sau đó, dần trở thành điều đương nhiên, thành định
luật, rồi là truyền thống không thắc mắc, không tranh cãi cho các thế hệ kế
tiếp; nhất là khi niềm tin chứ không phải là óc phán đoán là nét chủ đạo của
tổ chức. Ở đây ta nhớ tới “Stockholm
syndrome” (http://en.wikipedia.org/wiki/Stockholm_syndrome),
nhằm giải thích cơ chế những người bị áp chế, để tồn tại thích nghi, phải tự
thuyết phục cho hoàn cảnh phải chịu, quay ra yêu mến, biện minh cho kẻ áp chế
mình. Lý lẽ của kẻ áp chế trở thành lý lẽ của kẻ bị áp chế, hơn thế còn được
những kẻ bị áp chế phát triển hùng hồn, sốt sắng, chủ động và sáng tạo hơn
chính tác giả nguyên thủy của nó.
Tinh thần cực đoan
của 5 giáo sĩ Mỹ, được định chế hóa một cách vững chắc trong bản Điều lệ năm
1928, có giá trị nền tảng quan trọng, chi phối mọi sinh hoạt của HTTLVN như bản
Hiến Pháp của một quốc gia, đã được truyền qua các mục sư VN tiền bối vào
thời Pháp thuộc, là những người ít học, thiếu hiêủ biết, gia cảnh thường là khó
khăn (khi truyền đạo vào một đất nước, thường có 2 hướng tiếp cận: một là từ
thượng tầng đi xuống; hai là từ những người khó khăn, cùng khổ, yếu kém, hay có
vấn nạn cùng cực, có nhu cầu cần được an ủi, cần giúp đỡ đi lên; hoàn cảnh khó
khăn thường đi đôi với sự thiếu hiểu biết, do đó dễ nghe, dễ tin hơn là thành
phần trung lưu có hiểu biết hơn). Nói ít học, thiếu hiểu biết không phải là lời
xúc phạm, vì trong hoàn cảnh thiếu hiểu biết chung của đất nước VN do
thực dân Pháp áp dụng chính sách ngu dân, nói chung ai cũng ít học (cần
nhắc là khi Pháp rời VN vào năm 1954, ai có bằng tú tài đã là thuộc vào hàng
ngũ “trí thức, có học”) .Và cứ thế cái tinh thần bất dung, kỳ thị cứ
truyền xuống cho các thế hệ mục sư VN được đào tạo bởi các trường
Kinh Thánh (Đà Nẵng, Nha Trang, Đà Lạt, Buôn Ma Thuột, Thánh Kinh học đường
đoản kỳ) do Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp (Christian and Missionary
Alliance – CMA, hay C&MA) xây dựng, tổ chức, để huấn luyện các
mục sư VN và các thành phần nòng cốt. CMA chính là tổ chức của mục sư Irving.
R. Stebbins, (1 trong 5 mục sư Mỹ viết bản Điều lệ cho HTTLVN năm 1928),
và Thomas H. Stebbins (sinh tại Huế, có tên Việt Nam là Tôn Thất Bình, từng giữ
chức Hội trưởng CMA trước năm 1975, hiện nay 2013 vẫn tích cực giúp các Hội
thánh TL tại VN cũng như ở hải ngoại phát triển).
Tinh thần hẹp hòi, kỳ
thị, nghi ngờ, qui chụp của CMA thuở ban đầu mà một trong những lãnh đạo của nó
là Ms I.R. Stebbins tỏ ra không chỉ đối với Thiên Chúa Giáo La Mã, với các tôn
giáo khác, mà còn đối với các hệ phái, tổ chức khác trong Tin Lành.
CMA muốn có sự độc quyền lên HTTLVN, không ai được xen vào, dù họ cũng là Tin
Lành:
Một mục sư khoảng 80
tuổi, mục sư Phan Công Văn, được đào tạo ở trường Kinh Thánh Đà Nẵng nói “tôi
hoàn toàn không biết về các hệ phái khác, họ không được nhắc đến”.
Trong hồi ký 41
Năm hầu việc Chúa với Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (sẽ viết tắt là HVC),
mục sư I.R. Stebbins viết:
“Vài
năm qua, Hội Đồng Giáo Hội Thế giới cố len chân vào Hội Thánh Việt
Nam. Họ gửi một phái đoàn từ Thụy Sĩ đến thăm và an ủi Hội Thánh Tin Lành
Việt Nam trong cơn khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng… …. Đương nhiên, các nhà
lãnh đạo hội thánh cảm kích về sự giúp đỡ này và đồng ý cho ông thăm viếng bất
kỳ hội thánh nào tùy ý. Ông thuyết phục Hội trưởng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam
rằng các hội thánh nhận tặng phẩm không phải chịu bất cứ điều kiện gì với Hội
Đồng Thế giới cả. Hội Truyền Giáo không hài lòng với cách làm việc lén lút
của Hội Đồng Thế giới. Lúc đó không có chuyện gì xảy ra, nhưng không có
mối thiện cảm giữa ông và Hội Truyền giáo. (tr 277-278 HVC).
Chú
thích: Hội Truyền Giáo (CMA) và Hội Thánh Việt Nam là 2 thực thể riêng biệt.
“một
kế hoạch được thông qua nhằm xây dựng một ngôi trường mới Nha Trang, xa hơn về
phía nam, gần vị trí trung tâm của Miền Trung và Miền Nam. Mục tiêu thực sự của
quyết định này là giúp tránh xa bất cứ mối quan hệ nào với một tổ chức chỉ
mang lại sự lộn xộn” (tr 280 HVC)
“Bạn
có thể thấy đó là một cố gắng nguy hiểm của ma quỉ nhằm luồn lách và làm
cho hội thánh bắt đầu nghi ngờ lời Đức Chúa Trời” (tr 280 HVC)
3/
Nguyên do từ đâu mà người Tin Lành Việt Nam hay miệt thị những tôn giáo khác?
Lịch sử sang trang, trình
độ của miền Nam Việt Nam (dưới vĩ tuyến 17) thay đổi ngoạn mục trong
khoảng 1954-1975, hội thánh TLVN cũng có những tiến bộ nhất định, nhưng những
tiến bộ này rất hạn chế, thụt lùi hẳn so với bước tiến của dân tộc.
3a/
Thử tìm hiểu quan hệ giữa tinh thần đố kị, bất dung, những ngôn từ miệt
thị, lăng mạ, xúc phạm thô bạo những tôn giáo khác của Mục sư Irving R.
Stebbins , là 1 trong 5 tác giả của bản Điều lệ 1928, và ảnh hưởng của nó lên
HTTLVN hiện nay:
Trong cùng 1 câu viết của
hồi ký HVC, ông Stebbins đã xếp Hội Thánh La Mã chung với quỉ Satan “chúng
tôi đã quen với sự chống đối của Giáo Hội Thiên Chúa La Mã và quyền lực Satan” (tr
187, HVC), “Chúng tôi đang ở trong lãnh thổ của kẻ thù cùng với tiếng chuông
liên hồi của một nhà thờ Thiên Chúa Giaó La Mã ở xa” (tr 47, HVC)”. Tinh
thần thù nghịch Công Giáo La Mã này bao phủ khắp cuốn HVC. Cùng thờ Thiên
Chúa 3 ngôi mà ông Steven còn xếp cộng đồng Công Giáo La Mã chung với
quỉ Satan, với kẻ thù. Cùng là Tin Lành với nhau mà ông I. R. Stebbins đố
kị Hội Đồng Giáo Hội Thế giới như “một cố gắng nguy hiểm của ma
quỉ nhằm luồn lách và làm cho hội thánh bắt đầu nghi ngờ lời Đức
Chúa Trời” thì làm sao ông có thể có lời tử tế, đẹp đẽ hơn
với các tôn giáo khác được?
Do đó rất dễ hiểu
tại sao ông viết “Phúc Âm rất khác biệt với các tôn giáo của người
ngoại. Những tôn giáo đó thường kèm theo sự mê tín, thờ thần tượng, hồn ma, đốt
nhang trên bàn thờ, thờ ma quỉ, tất cả dựa trên nỗi sợ hãi bị các vật mà họ
thờ làm hại” (tr 47, HVC). Thật là ghê tởm cho một sự bóp
méo hồ đồ, dốt nát, gom tất cả các thứ vào làm một như vậy. Chả lẽ người VN
thờ cúng cha, mẹ, tổ tiên, ông bà là vì sợ cha, mẹ, tổ tiên, ông bà mình làm
hại? Tổ tiên, ông bà, cha mẹ nào có thể làm hại con, cháu? Làm sao một
người có trí óc lành mạnh, bình thường có thể có lý luận, phát biểu được
như vậy? Tác động, dấu ấn của ông I. R. Stebbins, 1 trong 5 đồng tác giả
(và là người nổi bật nhất) của văn kiện căn bản của HTTLVN là bản Điều lệ đầu
tiên vào năm 1928 sẽ ra sao khi ông có tư duy, lý luận bất bình thường như vậy?
Tín hữu TLVN ngày nay nghĩ gì về cách lý luận này của ông I.R. Stebbins, hay là
nếp tư duy này đã thành quen thuộc, không còn gây suy nghĩ?
Đọc thật kỹ cuốn HVC của
ông I.R. Stebbins, tôi thấy ông có cách nhìn: Vị trí của ông là vị trí
của lẽ thật, của Đức Chúa Trời; còn những gì khác ông là của ma quỉ, ngay cả
Hội Đồng Giáo Hội Thế giới (Tin Lành) cũng được xem là “một cố gắng
nguy hiểm của ma quỉ nhằm luồn lách và làm cho hội thánh bắt đầu nghi ngờ lời
Đức Chúa Trời”.
Quí mục sư như Irving R.
Stebbins dạy các mục sư VN tiền bối, các quí vị này lại dậy lại các thế hệ sau,
từ ấu thơ, nhồi đi, nhồi lại qua 2, 3 đời, nên từ đó thành nếp đố kị, ngăn
cách, kỳ thị với những gì khác HTTLVN; có những lời xúc phạm, mạt sát như người
khác thờ ma quỉ, thờ sự tối tăm… Đây là những cách đánh giá, phát biểu mà
người văn minh, có văn hoá ngày nay không dùng. Nhưng lại được xử dụng rất tự
nhiên, thường xuyên khi làm chứng ở nhà thờ, hay trong chốn riêng tư, khi
quí tín hữu Tin Lành VN đã nhập tâm, quen thuộc, không còn thấy kỳ dị và kỳ cục
nữa. Quí vị mục sư có giảng thì cũng chỉ trong chiều hướng gia cố cách nhìn
này, chưa bao giờ tôi được nghe khác.
3b/
Đọc lịch sử hiến pháp Mỹ, chúng ta thấy đây là 1 tác phẩm có sự tham dự, đóng
góp, bàn thảo của nhiều người qua bao thế hệ, không phải là tác phẩm áp đặt của
1 nhóm người cho cộng đồng, trong 1 thời gian ngắn. Thế nhưng bản
điều lệ đầu tiên của HT Tin Lành VN, có giá trị nền tảng như
một “hiến pháp”, lẫn những qui định cụ thể “tỉ mỉ từng chi
tiết” có tính “hành pháp” cho Hội thánh TLVN lại
là tác phẩm hòan toàn của chỉ có 5 mục sư Mỹ, “chỉ họp lại một lần
rất ngắn”, và chứa những điêù “kỳ lạ” như Ms Lê Hoàng Phu
đã nêu ra, với những hàm ý có thể hiểu là bất bình “sự thờ cúng tổ tiên được
các giáo sĩ coi là một hình thức khác của sự thờ hình tượng”. Mục
sư Phu không thể phát biểu rõ hơn, vì ông đã du học với sự bảo trợ của CMA, khi
ông lại là một trong những nhân vật quan trọng nhất của CMA. Dấu
ấn từ bản Điều lệ đầu tiên với những cấm đoán phong tục VN như
thờ cúng tổ tiên, không ăn đồ cúng… vẫn chi phối hoàn toàn cách sinh hoạt của
HTTLVN hiện nay.
Hiện nay những phương
tiện truyền thông đã nối kết con người từ khắp đia cầu gần nhau hơn, tức thì –
“in real time”. Con người từ từ gần nhau hơn, thấy rõ những dị biệt của nhau
rõ hơn. Do kiến thức, tri thức phát triển, càng ngày càng có nhiều người
cảm thấy nhu cầu bức thiết phải biết nhìn xuyên qua các dị biệt văn hóa, phải
biết chấp nhận sự khác biệt về nhận thức không thể nào cào bằng của nhau, để có
thể chung sống hòa bình với nhau. Đức Giáo Hoàng La Mã vừa thoái vị, vốn có
tiếng bảo thủ, đã tuyên bố trong hội nghị liên tôn giáo ở Đức quốc “Chúng
ta không chỉ sống bên cạnh nhau, nhưng chúng ta sống với nhau”; thế
nhưng suy nghĩ, lời rao giảng của Tin Lành VN vẫn là cách phân biệt, chia rẽ;
kiểu ta hoàn toàn đúng, ai khác ta là sai, là đi với ma quỉ, tối tăm.
4/Faith
and Reason? hay Faith and No Reason?
Tôi nghe nhiều mục sư VN
khác nhau giảng, từ mục sư quản nhiệm tới những mục sư khách mời, nhiều lần tôi
bị choáng váng (shocked). Nhiều mục sư tương đối trẻ, từ 35 tới 40, ngoài
bằng cấp thần học (cao học, tiến sĩ), các mục sư này cũng có bằng cấp
chuyên môn trình độ rất cao về kỹ thuật, hay quản trị hành chánh. Hấp thụ căn
bản TL từ gia đình từ ấu thơ, theo học Trường Kinh Thánh tại VN, nhưng
quí vị này đã du học thêm tại Anh, Mỹ, Canada về thần học, và đạt những học vị
rất cao. Phần lớn các mục sư xuất thân từ những gia đình nhiều đời mục sư, sui
gia các phía cũng là mục sư.
Nhiều chuyện làm tôi sửng
sốt vì thí dụ đưa ra là những thí dụ chỉ những người thuộc thời đồ đá, đồ đồng,
hay thời trung cổ mới có thể chấp nhận mà không thấy kỳ cục, tức giận; vì nó
phạm vào lương thức, và kiến thức phổ quát của một người trung bình trong thế
kỷ 21.
-
Để giảng bài học “Tận dụng thời cơ”, một mục sư lấy thí dụ anh chàng chăn bò,
do biết tận dụng thời cơ, nên đã dùng 1 cái đót bò có trong tay giết được 600
quân thù. Ông còn khai triển logic toán học một cách kỳ cục như sau: 1 người
giết được 600 người, thì 500 người biết tận dụng thời cơ như vậy sẽ giết
được bao nhiêu người? Cái thí dụ kỳ cục, cái logic toán-thần học này được khai
triển suốt bài giảng gần 30 phút. Chuyện “tận dụng thời cơ” bị chìm nghỉm, chết
ngộp trong những lời lập đi, lập lại về giết người; tinh thần Bác ái của chúa
Jesus hoàn toàn biến mất trong suốt bài giảng. Mục sư này là một trong những
con người dễ thương, khả ái nhất mà tôi hân hạnh được biết. Tôi rất thương yêu,
kính trọng ông bà. Ông vốn là 1 kỹ sư, tốt nghiệp thần học tại VN, và cao
học thần học tại Mỹ.
-
Để giảng bài học “Tinh thần đắc thắng”, một mục sư khách (tiến sĩ thần học tại
Mỹ, và 1 bắng cấp về quản trị hành chánh cao tương đương) kể chuyện người Do
Thái cử thám tử đi rình rập do thám mảnh đất màu mỡ “đầy sữa và mật”,
tìm cách chiếm nó từ tay kẻ thù. Mục sư đã dùng chữ “kẻ thù” rất
sáng tạo, trái với tinh thần công bình, bác ái của Chúa Jesus. Vì những “kẻ
thù” này không hề làm gì sai trái, họ chỉ có may mắn sống trên mảnh đất màu mỡ,
thiên nhiên ưu đãi, và do lao động tốt, họ gặt được thành quả tốt. Mục sư này
đã gọi là những người này “kẻ thù” chỉ bởi vì họ lỡ sống trên mảnh đất mà người
Do Thái thèm muốn, vì mảnh Đất Hứa này là Chúa trời hứa cho người Do
Thái. Ở đây, người nghe thấy chuyện tham lam của người khác, mưu đoạt chiếm của
cải, đất đai người khác làm ăn lương thiện, và nhân danh lời hứa của Đức Chúa
trời. Chuyện tham lam bất lương này che lấp mất “tinh thần đắc thắng” mà diễn
giả cố nêu ra. Đi xa hơn mục sư tiền bối I.R. Stebbins, từ bài giảng xuất
hiện một định nghĩa mới của “kẻ thù” : “dù chúng mày không làm gì chúng tao
cả, nhưng chúng mày là kẻ thù của chúng tao, chỉ vì chúng mày có cái mà
chúng tao muốn”. Thử có ai tới nhòm ngó nhà cửa, đất đai của chúng ta, của
mục sư diễn giả, vì họ được đấng Tối Cao của họ hứa với họ đất đai, nhà cửa
này; thì chúng ta và mục sư diễn giả có thấy bình thường không? Có chấp nhận
không? Hay là chúng ta lẫn mục sư diễn giả đều phải “quyết phen này sống
thác mà thôi”?
-
Chuyện đấng Jehova giết chết một anh chàng dù có thiện ý chạy tới đỡ hòm bia
với lòng thành, để nó khỏi đổ xuống, nhưng anh này vẫn bị đấng Jehova vật chết;
bởi vì Jehova chỉ dành quyền này cho người Lê Vi, không dân nào khác được
làm. Chuyện nhảm nhí, vì Thiên Chúa là của mọi người, trong mọi thưở, không
của riêng người Lê Vi. Trong những xã hội thần quyền, ở khắp nơi trên thế
giới, giai cấp tư tế luôn có quyền và lợi hơn người, vì vậy người Lê Vi
đặt ra chuyện đấng Jehova qui định chỉ có người Lê Vi mới được quyền đụng
tới hòm bia cùng làm những nghi thức tư tế, rằng đấng Jehova giết người nào xâm
phạm qui định này, cho dù từ thiện ý, và điều này được chép trong Thánh
Kinh; Chuyện này xây dựng nỗi sợ hãi nhằm bảo vệ quyền lợi người Lê Vi có được
từ việc độc quyền chăm lo việc tế tự, thờ phụng đấng Jehova. Ở đây, người nghe
lại thấy cái trò nhân danh thượng đế dành tư lợi cho một nhóm người, đã được áp
dụng mòn nhẵn khắp thế giới, từ Đông sang Tây, ở nhiều thời đại.
-
Chuyện Chúa phá việc xây tháp Baben để cản việc con người kiêu ngạo muốn xây
tháp lên trời. Trời ở đâu? chắc chắn là phải cao hơn 10 km. Thế nhưng con
người chỉ cần lên tới quá 9 km là đã hết có dưỡng khí để thở, đã xanh lè hết
nhúc nhích, cho nên Chúa khỏi cần phá mất công. Ở đây, tôi thấy mục sư
chỉ giảng cho bằng được, không để ý tới những logic, kiến thức tối thiểu, và
suy nghĩ của 1 người sống vào thế kỷ 21 khi phải nghe lối nhận thức thế giới,
lý luận ngây ngô của những người sống từ vài ngàn năm trước thể hiện qua câu
chuyện, nhưng nay được mục sư giảng với nghĩa đen, cho những người đang
sống vào thế kỷ 21.
-
Khi nghe một mục sư khách khác, hơi trọng tuổi giảng, tôi rất thích vì những
lời có tình, có lý, cách diễn đạt giản dị, duyên dáng, đẹp đẽ nên đã vỗ tay.
Lúc chót, ông giảng 1 câu làm tôi lưu ý và suy nghĩ, chỉ có cửa của Chúa
Jesus là cửa thật, còn các cửa khác đều là phường trộm cướp. Nếu
giảng sát theo văn bản Kinh Thánh thì chắc không sai, Ms diễn giả không thể và
không dám đặt ra điều này, nhưng ngày nay mà áp dụng nó trong nhận thức, hành
động thì thành giáo điều, integrist, fundamentalist (ý nghĩa của 2
chữ này rất rộng, xin độc giả dùng Google tìm hiểu, vì không có tiếng Việt
tương đương). Nó là một sự thiếu ý thức và hiểu biết về thế giới hiện
đại. Nó giải thích tại sao người Tin Lành VN thường có những phát biểu
mang tính mạt sát người khác niềm tin của mình, vì lẽ đơn giản là khi “tất
cả cửa khác đều là phường trộm cướp“ thì làm sao các cửa khác
khá, tốt? làm sao tôn trọng được? Nhận định này nếu phát biểu vào
thời Trung Cổ thì có lẽ thích hợp hơn là vào thế kỷ 21.
Những chuyện như vậy có
thể được nghe, chấp nhận, tin bởi những người thô sơ, hay từ những người được
nhồi sọ, lập đi lập lại từ bé thơ, chỉ nhấn mạnh về Faith, và chỉ Faith
mà thôi, nên óc phán đoán bị bào mòn; nhưng không thể nào có thể nuốt trôi,
tiêu hóa được bởi 1 người đi tìm, có chút tư duy độc lập, và chịu khó động não,
dù người đó cố gắng mềm lòng cách mấy đi nữa.
Trên đây chỉ là vài thí
dụ chấm phá về một giáo dục thần học Faith and No Reason,
mà những người xây dựng tiên phong đã hướng tới việc củng cố niềm tin bằng mọi
giá, đóng kín. Di chứng hiện nay là việc không kêu gọi sự mở mang suy nghĩ, trí
tuệ, bất chấp tới những đổi thay chóng mặt của thế giới và con người, bất chấp
tới những nhận thức, quan niệm đúng sai mở rộng mà thế kỷ 21 đang mang tới cho
con người; không hề quan tâm tới Interfaith Dialogue.
Những thí dụ nêu trên còn
cho thấy thành phần mục sư mới, hậu duệ của những mục sư tiền bối, dù trẻ hơn,
dù có giao tiếp với thế giới nhiều, dù có học vấn, kiến thức chuyên môn hay
thần học vượt trội hơn hẳn so với cha ông, nhưng có lẽ vì quán tính do giáo dục
gia đình, do guồng máy tổ chức, vẫn chưa ý thức được rằng cách họ giảng, những
thí dụ họ nêu ra là “Faith with no Reason at all”, và đi ngược lại quan
niệm công bằng, lẫn cách nhìn đã trở nên bao dung hơn với những cái khác biệt,
với quan niệm đúng sai của người khác; mà nhân loại hiện nay càng ngày
càng chia xẻ.
5/
Có ai chống Tin Lành Việt Nam không? Nếu có, tại sao chống, và chống là chống
cái gì?
5a/
Khi tôi hay những người trẻ lớn lên ở đây có dị ứng với những lời mạt sát, và
đặt vấn đề; thì không phải là chúng tôi khó chịu, chống Tin Lành VN mà
là chống ngôn từ negative, chống cách suy nghĩ negative về người khác
(xin coi thêm chú thích cuối bài tại sao tôi dùng tiếng Anh “negative” thay vì
viết “tiêu cực”) mà từ khi còn rất nhỏ ở trường, cho tới chỗ làm việc khi
trưởng thành, chúng tôi luôn được dạy là nên tránh. Điều này làm ngay cả vợ tôi
cũng hiểu lầm là tôi chống Tin Lành!
Muôn vạn lần không,
tôi chỉ chống cái tư tưởng bất dung với những cái khác ta, cái lối mạt sát,
nhìn xấu về người khác cho dù nó tới từ bất cứ tôn giáo, hay đảng
phái chính trị nào: Phật Giáo, Lão Giáo, Khổng Giáo, Công Giáo, Tin
Lành…, hay Xã Hội, Dân Chủ, Cộng Hoà …
Đại gia đình tôi và đại
gia đình vợ tôi có tổng cộng 11 mục sư thuộc 3 thế hệ. Từ năm 13 tuổi, học
trung học, rồi vào đại học, ra đời làm việc, tôi đã sống ở trọ trong trong
nhiều gia đình Công Giáo VN, sau đó là chung đụng, làm việc với Ấn Độ giáo, Hồi
Giáo, Công giáo, Tin Lành … là người VN hay ngoại quốc ở Âu
châu, Arab, Mỹ; nhưng chưa bao giờ tôi sống trong không khí bất dung, thù
nghịch, kỳ thị, miệt thị những tôn giáo khác như tôi đang thấy trong môi trường
Tin Lành VN, chưa bao giờ.. Mục sư quản nhiệm của tôi hỏi hội thánh “sao
chúng ta không mạnh dạn nói với người khác, là chúng ta là người Tin
Lành”, chứng tỏ Ms biết là nhiều tín đồ ngần ngại về chuyện này.
Có 2 câu trả lời:
- Ác cảm với tôn giáo khác làm ta xây 1 cái tường vô thức ngăn cách nghi ngại.
- Chúng ta biết mình không ưa người, coi thường người khác, vì giáo điều của chúng ta mạt sát những điều người khác tôn kính; thì làm sao mình có thể tự nhiên, thoải mái nói chuyện với người ta, xưng mình là ai (do đó đã dấu đi như mục sư quản nhiệm tôi nhận thấy, và nêu ra).
- Ác cảm với tôn giáo khác làm ta xây 1 cái tường vô thức ngăn cách nghi ngại.
- Chúng ta biết mình không ưa người, coi thường người khác, vì giáo điều của chúng ta mạt sát những điều người khác tôn kính; thì làm sao mình có thể tự nhiên, thoải mái nói chuyện với người ta, xưng mình là ai (do đó đã dấu đi như mục sư quản nhiệm tôi nhận thấy, và nêu ra).
Trong 1 thế giới đa
nguyên, thông tin bùng nổ, nếu không thấy được những hố sâu ngăn cách do
chính người Tin Lành VN tự đào ra với người ngoại, thì những cố gắng
truyền đạo TL như tôi chứng kiến từ bao năm nay sẽ vấp phải khó khăn to lớn,
hay chỉ là những quằn quại vô vọng. Vì nó đi ngược lại cách nhận thức và
cách sống càng ngày càng phổ cập của một xã hội văn minh, đó là: ý thức và
thường xuyên giáo dục ở trường học, ở chỗ làm về việc tránh nói, tránh có nhận
định không tốt, kỳ thị với những điều khác với bảng giá trị của mình, và tôn
trọng cái khác nhau của tha nhân. Ở Mỹ trẻ con được dạy từ bé tí xíu, như
ở lớp 2 của con tôi, ngay cửa ra vào có bảng “think positive, talk
positive”, không ai muốn nghe những lời mạt sát những cái khác mình xuống,
để tôn mình lên. Và cái lối giáo dục bằng đe doạ giờ chả doạ đuợc
người lớn có hiểu biết nào (nhưng vô cùng hiệu quả khi bị nhồi
sọ từ bé xíu, để tạo ra những con người có cái nhìn rất méo mó, tiêu cực về
những người khác mình), Con gái của bạn tôi, năm nay khoảng 13 tuổi,
không đi nhà thờ Tin Lành VN nũa vì nó không chịu đựng được cái lối dạy threatening
(chữ này là nguyên văn của con gái bạn tôi) của VN.
Các mục sư VN ở Mỹ, dù
còn trẻ, có lẽ vẫn sống ít nhiều ở ngoài giòng chính (main stream), không đi
làm trong công, tư sở như những người bình thường, nên không ý thức được lối
giảng của mình có khi rất lạc điệu, nhiều khi rất quái gỡ trong xã hội đa
nguyên, đa văn hóa hiện đại. Hữu xạ tự nhiên hương, không cần phải dìm người khác
để mình nổi lên. Tìm cách hiểu những quan điểm khác là chìa khoá để
xây dựng hoà bình.
5b/
Cuồng tín là gì? nguyên nhân của cuồng tín: Một cô lên làm
chứng ở nhà thờ, kể về các bà con đạo Phật của cô mà cô gọi là “đạo Phật
cuồng tín”. Nghe xong tôi nhờ 1 anh trong nhà thờ định nghĩa “cuồng tín”, anh
trả lời “Cuồng tín = Niềm tin + Sự dốt nát”.
Điều làm tôi lưu ý ở đa
số những người Tin Lành tôi biết, tôi không thấy họ đọc bất cứ một cuốn sách
nào về lịch sử, nhân chủng, văn hoá, tôn giáo nào khác. Nhiều
người có bằng cấp chuyên môn rất cao, nhưng không có thao thức tìm hiểu, kiến
thức tổng quát của họ nói chung rất kém. Đây là điều tôi thấy
từ 10 năm nay, rất thường. Không tìm đọc và không cần đọc,
không cần biết. Chỉ lập đi, lập lại, yên tâm với những gì mục sư và cha mẹ mình
truyền cho mình, và mài cho bén hơn.
Sự liệt kháng trí thức
(intellectual AIDS), giáo dục nhồi sọ nhằm tạo phản xạ Pavlov, không chịu tìm
hiểu ngọn nguồn, không tìm hiểu vì không được giáo dục, khuyến khích tìm
hiêủ, chỉ nghe và nói một chiều. “Nhân bất học, bất tri lý”, Chúa
nói “dân ta chết vì thiếu hiểu biết“, đã đưa ra tới kết quả là những
nhận xét cay nghiệt, miệt thị, thiếu hiểu biết về các tôn giáo khác như: đạo
khác không có 1 standard đúng sai như đạo Tin Lành, nên người ngoại không
biết đúng sai, người ngoại giả dối … Nói vậy thì khi tổ tiên của những
người TL này không là TL, không có standard đúng sai như Tin Lành, nên đều là
những người không biết đúng sai, là giả dối, là quân lưu manh, trộm cướp hết cả
hay sao?!
Trong thời Pháp thuộc,
Phật Giáo (1 tôn giáo lớn ở VN, và đã có những đóng góp nòng cốt, căn bản vào
lịch sử dân tộc Việt trong 2 triều Lý, Trần, là những triều đại huy hoàng nhất
trong lịch sử VN) phải chịu chung với số phận lịch sử của cả khối Á Châu cùng
đất nước Việt Nam, bị thua cuộc trước sự hùng mạnh của Tây Phương. Đất nước VN
bị đô hộ, suy vong, văn hoá dân tộc quặt quẹo, tàn lụi. Chịu chung số phận của
đất nước, Phật Giáo VN đã ở trong 1 thời kỳ đau yếu, tàn tạ, sa vào những mê
tín, kém cỏi mà hậu quả vẫn tồn tại tới hôm nay. Việc không thấy được
điều này trong bức tranh lịch sử toàn dịên + tinh thần kỳ thị tôn giáo được gia
cố từ đời này qua đời khác của những thế hệ Tin Lành tiên phong, còn mang
nguyên vẹn DNA của những giáo sĩ Mỹ, đã làm nhiều tín đồ Tin Lành VN phát
biểu những lời xúc phạm, mạt sát Phật Giáo, những phong tục thờ cúng tổ tiên
của dân tộc, như “thờ ma quỉ, thờ những sự tối tăm v.v…”
Có thể cho là mê tín về
hình thức tụng kinh bằng tiếng Phạn với phiên âm Hán Việt vô nghĩa “bà ha, bà
ha, yết đế, tai gia mà ha…”, nhiều tượng màu mè (dù vẫn có giá trị nghệ
thuật bình dân), nhang đèn nhức đầu, mà nhiều nguời theo Phật Giáo làm tại các
chùa. Nhưng những cái đó chỉ là một phần rất nhỏ của Phật Giáo. Nếu đi vào giáo
lý của Phật Giáo thì là cả 1 hệ thống lý luận chặt chẽ, có lớp lang như logic
toán học, rất sát với những nguyên tắc, cách suy nghĩ khoa học hiện đại. Khoa
vật lý lượng tử (quantum mechanics) là khoa vật lý tiên tiến nhất hiện nay (sau
khi vật lý cổ điển Newton đã đạt toàn bích, không thể đi xa hơn) vẫn liên tục
có những phát hiện tương hợp, kiểm chứng được bằng thí nghiệm, lẫn lý
thuyết về những nguyên tắc mà những tư tưởng gia Phật Giáo chỉ bằng quán tưởng
lẫn trực giác đã phát hiện từ trên 2 ngàn năm trước, như: tính tương đối
(relativity), tính bất định và vô thường (Indeterminism) “sắc bất thị không,
không bất thị sắc” của mọi hiện tượng vật thể; tính liên lập, trùng trùng duyên
khởi (interdependence)… Danh sách này còn rất dài, xin độc giả tự tìm tòi thêm.
Nhiều người TLVN nhận
định về PG, vô tình hay cố ý, bỏ qua phần lý luận (là mặt mạnh nhất của PG so
với các tôn giáo lớn khác), cùng tinh thần hiền hòa lẫn những kỹ thuật nhằm
hướng thiện, tu sửa chính mình … của Phật Giáo vì họ không biết, và không cần biết.
Họ chỉ tập trung vào cái thô sơ nhất đã được cha, ông, mục sư của họ… dạy dỗ là
cần chống thờ thần tượng, chống thắp nhang, chống thờ tất cả các thần ngoại –
vì tất cả đều bị coi là tà thần – vào chung một thúng với việc chống ăn đồ
cúng, chống thờ cúng tổ tiên vì là thờ ma quỉ. Họ được dạy thành phản xạ
là phải tránh xa, bài xích, không cần tìm hiểu những gì họ được nhồi sọ một
chiều, không ngừng nghỉ là xấu. Cả một hệ thống suy nghĩ, lập luận giàu có,
của PG với những đóng góp to lớn vào kho tàng tri thức của nhân loại, lẫn một
triết thuyết, một lối sống, một cách thực hành mà từ trên 2500 năm,có kết quả
kiểm chứng được trong lịch sử thế giới từ trên 2500 năm nay, là chưa bao giờ
gây ra 1 cuộc đổ máu đáng gọi là thánh chiến (dù có những ngoại lệ
rất, rất nhỏ chỉ mang tầm vóc bạo động như đã xảy ra ở Nhật bản vào tiền bán
thế kỷ 20 bởi phong trào dân tộc cực đoan mang màu sắc Phật Giáo trộn với Thần
Đạo Nhật Bản, và những bạo động gần đây ở Miến Điện). Phật Gíao, cả một tôn
giáo với đủ các mặt tín ngưỡng, tâm linh, tư tưởng … to như một con voi, được
nhìn nhỏ lại bằng đuôi một con chuột dơ dáy, xấu xí, qua lăng kính đố kị tôn
giáo của Tin Lành Việt Nam!
Từ 1928 tới 2013 đã là 85
năm. Thế giới đã biến chuyển theo đồ thị exponential về mọi mặt. Thế
nhưng ngôn từ của TLVN với người khác vẫn là ngôn từ của trên nửa thế kỷ trước,
của nước VN thời Pháp thuộc, nhiều tư duy, thế giới quan vẫn là thế giới quan
thời thượng cổ, Cựu Ước, tiền Chúa giáng sinh rất thù nghịch với dân ngoại,
thần ngoại (tác giả của chuyện Chúa Trời phá tháp Baben không có ý niệm gì về
bầu khí quyển mỏng manh bao quanh trái đất, và mục sư diễn giả, một kỹ sư của
thế kỷ 21 cũng quên bẵng điều sơ đẳng này. Faith and no Reason!)
Cần biết là khi mình nhìn
mọi chuyện dưới nhãn quan tiêu cực, lẩm cẩm, nhỏ mọn, thiếu kiến thức, thiếu
hiểu biết, đầy qui chụp ma quỉ, thì mình sẽ hành xử không đúng, không
tốt, dù mình tin mình là tốt, là đúng, vì cái nhìn này nó tréo cẳng ngỗng
với những giá trị phổ quát của thời đại mới; thì mình sẽ lấy bụng ta, suy
bụng người, rằng người khác cũng tiêu cực, nhỏ mọn như trí óc hạn hẹp của
ta. Khi đeo kính đen thì mọi vật sẽ đen đi.
6/
Hương sắc khác nhau của những tôn giáo khác nhau:
“Hãy
yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa
anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” đây là một tuyên ngôn vô
cùng mạnh mẽ. Từ 13 tuổi tới nay tôi luôn học được những giá trị của Thiên Chúa
như nhẫn nhịn, tha thứ, thương yêu tha nhân… vốn được thường xuyên nhắc nhở, và
tỏ ra trong cuộc sống của vô số Ky Tô Hữu tôi quen biết. Tôi thấy rất rõ những
ấm áp, tình bác ái giữa người mà Ky-tô giáo mang lại cho nhân loại, những đóng
góp tích cực của văn minh Thiên Chúa Giáo (nói chung tất cả các nhánh từ khi
chúa Jesus giáng sinh) vào cuộc sống của nhân loại, không có chúng thì thế giới
này sẽ hoang vắng, nghèo nàn biết chừng nào; nhưng cũng ghê sợ trước những
chiến tranh tôn giáo. Gần như không có cuộc thánh chiến nào lại thiếu mặt những
người tuyên xưng đức tin nơi chúa Ki-tô. Xung đột đẫm máu giữa Thiên Chúa Giáo
với Hồi Giáo, Thiên Chúa Giáo với Tin Lành, và ngược lại Tin Lành với
TCG.
Tôi cũng học được những
điêù hay, đẹp, cao thượng của Phật Giáo như “hỉ, xả” để không ghim chặt
trong lòng những điêù mà mình cho là người khác làm sai trái với mình. Từ chữ
“từ, bi” của đạo Phật, không những chỉ đối với con người, tôi ý thức quí trọng
sự sống của muôn loài, muôn vật dù là con dế, con sâu, cái kiến … để tránh giết
hại chúng không cần thiết. Cái nhìn “từ, bi, hỉ xả” tạo cho tôi một phản xạ,
100 lần như 1, không bao giờ thù hận, ghét bỏ ai; vợ tôi, một tín đồ Tin Lành,
con của 1 vị mục sư làm chứng cho điều này nơi tôi. Làm lỗi, tôi cắn rứt lương
tâm chắc không thua con cái Chúa đâu.
Tôi yêu thích sự nhẹ
nhàng vô vi của Lão tử, Trang tử.
Hiện nay, tôi là người
không tôn giáo, nhưng có nhu cầu tâm linh rất lớn, có lòng hướng thiện
luôn tìm hiểu, mở lòng. Tôi đã yêu mến Thiên Chúa khi được diễm phúc ở
gần những người yêu mến Chúa một cách nhẹ nhàng, không giáo điều, không cực
đoan, hiểu biết, biết nghe, hiểu người khác. Hơn ngàn lời nói, phong cách này
êm dịu cải hoá, làm lòng người nghe mềm mại. Nhưng lòng tôi chĩu nặng, hay
nhiều lần sự phẫn hận nổi lên trong lòng khi phải nghe những lời
miệt thị của những người chỉ biết có Faith mà không biết Reason, chỉ biết có My
Faith mà hoàn toàn không biết về Other’s Faith. Là người hướng tới sự
công chính, tôi không chịu và không chấp nhận những chỉ trích miệt thị thiếu
hiểu biết dù là từ Phật Giáo hướng tới Công Giáo, Tin Lành, Hồi Giáo; hay
ngược lại từ Tin Lành, Công Giáo tới Hồi Giáo, Phật Giáo.
7/
Lịch sử Việt Nam trong vài thế kỷ qua, và những bài học cần học hỏi từ những
vấp ngã đã xảy ra của người khác.
Đã có khoảng 100.000
người Công Giáo VN đã tử vì đạo vì trong những thế kỷ trước. Khi đọc tới con số
này, chúng ta, mọi người Việt Nam, không phân biệt chính kiến, tôn giáo
cần tưởng niệm và khóc thương cho những người đã mất mạng. Chúng ta cần quán
niệm, suy tưởng thật sâu, với cái nhìn không thành kiến, tình thương và
trí tuệ, rút bài học, để những sự kiện đáng ân hận vô cùng như vậy không bao
giờ xảy ra nữa ở Việt Nam.
Khi đọc phần phụ lục Phép
giảng 8 ngày của Alexandre de Rhodes (người được hiểu lầm là cha đẻ của chữ
quốc ngữ) của bài Chữ Quốc Ngữ, tiếng Việt Nam, và Tu sĩ Alexandre de
Rhodes, tôi hiểu rõ hơn nguyên do của những bách hại tôn giáo
này (xem http://www.diendantheky.net/2013/02/mai-kim-ngoc-chu-quoc-ngu-tieng-viet.html.
Chú thích: Mai Kim Ngọc là bút hiệu của bác sĩ Vũ Đình Minh là pulmonary
professor tại UCI; là university professor về y khoa ở Mỹ nên ông có cách
nghiên cứu rất cẩn thận). Alexandre de Rhodes đã chỉ rõ và chửi thậm tệ
không sót một tên: Phật, Lão, Khổng lẫn phong tục thờ cúng tổ tiên của
người VN. Với Phật giáo “Vậy thì ta làm cho Thích Ca, là thằng hay dối người
ta”, với đạo Lão “Giáo này thì thờ ma quỷ mà làm những phép giả”,
với Khổng tử “ông Khổng chẳng có làm sự ấy, vì vậy chẳng phải hiền, chẳng
phải thánh, thật là độc dữ”, với phong tục, lễ giáo VN thì “Những điều
lầm lỗi trong việc thờ cúng cha mẹ”. Trong bối cảnh lịch sử vài trăm
năm trước, kiến thức của người VN và của cả loài người nói chung về thế giới
còn rất giới hạn, thì chuyện phản ứng tàn bạo với những mạt sát, tấn công trực
diện vào cả Phật, Khổng, Lão, việc thờ cúng tổ tiên, vốn là nền tảng tư tưởng,
văn hóa đã xây dựng nên dung mạo, đất nước của người VN là chuyện tất yếu,
không thể nào tránh khỏi
Tục ngữ Việt Nam có câu
“Tiếng lành đồn gần, tiếng dữ đồn xa”. Hiện nay, người ta xa lánh, hay không
mặn nồng với Tin Lành VN không phải vì không biết giá trị của một số điều cao
quí được rao giảng bởi người TL, mà vì biết và chán ngán với những đánh giá cực
đoan, tiêu cực, thiếu hiểu biết, bất dung tôn giáo, những Interfaith
Despise, những bài giảng Faith and No Reason. Từ năm này qua
năm nọ, làm sao mà người ngoại không biết rằng người TLVN đánh giá, nhận định
về mình như thế nào, về những tôn giáo khác như thế nào? Biết rồi làm sao
không chia xẻ, không kể cho nhau nghe?
Suốt
những năm 1950, những người Công giáo nghiên cứu về thần học và Kinh Thánh bắt đầu quay khỏi chủ nghĩa tân
kinh viện (neo-scholasticism) và kiểu giải thích Kinh Thánh theo nghĩa
đen. Sau vài năm hội họp, làm việc chung từ đề xuất của Giáo hoàng Gioan
XXIII, 17 giáo phái Chính Thống giáo và Tin Lành cũng đã gửi quan
sát viên theo lời mời của Công Giáo La mã, kết quả là Cộng đồng Vatican II
(từ năm 1962 tới 1965) đã ban hành 16 văn kiện chiến lược, phản ảnh những
nhận thức mới của Công Giáo La mã, dưới đây là vài nét chấm phá:
-
Về kích thước tư duy mới của con người “Vì dân Chúa đã và đang lớn mạnh, thoát
ra khỏi cái mà ta gọi là “Não trạng duy giáo lý”
”.
-
Nhìn nhận tính chất đặc thù của những nền văn hóa bản địa, những hình thức
phong tục địa phương, và cái nhìn mới giữa Công Giáo về các tôn giáo khác:
“phẩm giá căn bản của loài người đòi hỏi
sự tự do không bị ép buộc về vấn đề tôn giáo. Mọi người phải được tự do thờ
phượng theo lương tâm của mình”.
“Giáo Hội Công Giáo không hề phủ nhận
những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó. Với lòng kính
trọng chân thành, Giáo Hội xét thấy những phương thức hành động và lối sống, những
huấn giới và giáo thuyết kia, tuy rằng có nhiều điểm khác nhau với chủ trương
mà Giáo Hội duy trì,nhưng cũng thường đem lại ánh sáng của Chân Lý, Chân
Lý chiếu soi cho hết mọi người. Tuy nhiên Giáo Hội rao giảng và có bổn
phận phải kiên trì rao giảng Chúa Kitô, Ðấng là “đường, sự thật và sự sống”
………. Vì thế, Giáo Hội khuyến khích con cái mình nhìn nhận, duy trì và cổ
động cho những thiện ích thiêng liêng cũng như luân lý và những giá trị xã hội
văn hóa của các tín đồ thuộc các tôn giáo khác, bằng con đường đối thoại
và hợp tác cách thận trọng và bác ái với tín đồ các tôn giáo ấy mà vẫn
là chứng tá của đức tin và đời sống Kitô giáo”.
-
Về chính bản thân Giáo hội La Mã “không còn dám tự hào chắc chắn là mình đắc
thủ toàn vẹn chân lý, nhưng khiêm nhường thú nhận trước Thiên Chúa và các thành
viên của mình rằng Giáo hội chỉ là một đoàn người lữ hành, đang trên đường tiến
đến sự viên mãn của chân lý”.
-
Về cách trình bày giáo lý trong thời đại mới“Bản chất của các giáo lý xưa
trong kho tàng đức tin là một chuyện, và cách thức trình bày giáo
lý ấy lại là chuyện khác”
(Chú
thích: tất cả những trích dẫn ở trên tới từ 2 links dưới đây: http://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng_%C4%91%E1%BB%93ng_Vatican%C3%B4_II
, và http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/vatican2/vatican2.htm)
Việc tuân thủ một cách sơ
cứng Mười Điều Răn của thời Cựu Ước đã gây ra những đổ vỡ, tàn hại tới vô số
sinh linh, gây hiềm khích giữa con người từ đời này sang đời khác, không chỉ ở
VN mà còn ở nơi chốn khác.
Hiện nay HTTLVN vẫn hiên
ngang đi vào vết xe cũ của Công Giáo VN từ 300 năm trước, thì cũng nên rút kinh
nghiệm lịch sử rằng đã có 100.000 người Công Giáo VN tử đạo trong các thế kỷ
trước, để suy nghĩ về tình cảm, phản ứng của “dân ngoại”, là đối tượng chinh
phục của HTTLVN, khi những người ngoại này tiếp tục được nghe những mạt sát
tương tự như thuở trước. Mọi hành trình đều có điểm khởi hành, lúc dừng lại,
suy nghĩ, định hướng, trước khi tới đích. Ít có ai đi một lèo, không cần ngó
trái, phải, trên dưới mà tới đích ngay chóc. Phải khôn ngoan khi dùng một bản
đồ vẽ từ vài ngàn năm trước, với những dặn dò cặn kẽ của thời xa xưa cho những
người thiên cổ, để di chuyển ngày hôm nay.
Lịch sử nhân loại cho
thấy sự khôn ngoan có được từ nhiều cách: một vài khuôn mặt kiệt xuất, hay một
số tổ chức, cộng đồng biết rút bài học từ những vấn đề lớn, hay đặt vấn đề để
nhiều người tham gia vào quá trình suy nghĩ tìm giải pháp và định hướng cho
tương lai…
8/
Qúi mục sư, xin họp lại với nhau, nhìn lại cách mình được giảng dạy, giáo dục
từ thơ ấu; cách mình giảng dạy hiện nay, và tác động của nó lên tín đồ.
Tôi đi nhà thờ TL rất đều
đặn từ 5, 6 năm nay (rất sốt sắng, trừ chuyện rất bất khả kháng, luôn là người
chủ động đi nhà thờ, không cần vợ nhắc). Nhiều chuyện tôi muốn tin nhưng
không tin nổi như đã kể trên, nhưng tôi vẫn sốt sắng đi vì tôi muốn hiểu và
thông cảm vợ tôi, vì muốn biết con trai nhỏ của tôi học gì ở trường Chúa nhật
tại nhà thờ Tin Lành Việt Nam. Chuyện gì hay thì mình học hỏi, áp dụng vào cuộc
sống; chuyện gì mình thấy kì lạ,không đúng thì để đó, hay tìm hiểu, hay góp ý.
Có nhiều người nói với
tôi “anh đi tới nhà thờ là vì Chúa, là để tương giao với Chúa, chứ ngó làm
gì những chuyện bất toàn của người này, người kia, để mà phán đoán này nọ”.
Đúng vậy, tôi tương giao với Chúa theo cách của tôi, không theo cách “Faith and
No Reason, with absence of Interfaith Dialogue”. Nhưng tôi cũng là người của
thế kỷ 21, xã hội và thời đại tôi đang sống dạy tôi phải thường
trực suy nghĩ, bày tỏ cởi mở những suy nghĩ của mình, không cố thủ sau
những thành quách tư tưởng để sự không hiểu nhau giữa con người càng ngày càng
trầm trọng. Và đây không phải là bất toàn của một ông, bà A, B, C nào đó, nhưng
của một tổ chức lớn, một nếp suy nghĩ hằn sâu trong một cộng đồng; dù
muốn hay không cũng có ảnh hưởng rất lớn lên môi trường chung quanh, chưa kể
tác động của nó lên cuộc đời của những thành viên của tổ chức.
Thí dụ về tác động tiêu cực của cái
nhìn khép kín, tiêu cực lên chính thành viên, và tác động của nó lên chung
quanh:
1/ Nhiều gia đình Tin Lành cương quyết
không gả con cho dân ngoại. Cấm đoán này không sai, vì khi giáo điều,
integrist, fundamentalist, nhất quyết không thỏa hiệp, không dung hòa với người
phối ngẫu là dân ngoại, thì sự xung đột, va chạm không thể tránh khỏi, hôn nhân
sẽ là điều bất hạnh, chi bằng ngăn chặn từ đầu. Do cộng đồng Tin Lành vẫn là
một thiểu số rất nhỏ ở VN, hệ quả là nhiều thanh niên, thiếu nữ Tin Lành phải ở
vậy vì không tìm được người ưng ý cùng đức tin trong 1 cộng đồng nhỏ bé. Nhưng
nhu cầu tâm, sinh lý, yêu thương vốn là những nhu cầu căn bản, tự nhiên của
muôn loài thì không thể nào dập tắt. Hậu quả là những cuộc sống cô đơn, sầu khổ
lúc về chiều, khi sức khỏe suy xụp, sẽ cần người thân để nương tựa, đặc biệt
nơi phụ nữ; hay những khủng hoảng tâm lý, hay những nổi loạn với gia đình
để tìm hạnh phúc cho mình, nhưng rồi vẫn không ra khỏi những giá trị đúng sai,
nề nếp học được từ thơ ấu, chính mình sẽ là một cái khuôn mới giống như cũ; hay
những cuộc hôn nhân muộn màng cố gạt bèo để bắt tép. Vấn đề chính
không phải là cấm đoán hay ngăn cản là sai; mà con đường đưa tới sự phải ngăn
cản, cấm đoán, là sự giáo điều, integrist, fundamentalist, đã gây cản trở bế
tắc cho nhu cầu tự nhiên, căn bản là thương yêu, truyền giống có đúng hay
không?
2/ Phạm trù đúng của Tin Lành VN theo định
nghĩa của các giáo sĩ Mỹ tiên phong có phần chung nhỏ với người VN ngoại
đạo. Thí dụ khi người ngoại làm 1 điều bình thường, được coi là mỹ tục của văn
hóa dân tộc như thờ cúng tổ tiên thì lại rơi vào phạm trù sai của người Tin
Lành, coi là thờ ma quỉ, là nguyên tắc bất khả nhượng, là điều đáng kinh sợ,
ghê tởm.. Tôi nghe nói “Những linh hồn tội nhân đang chờ ngày phán xét được
giữ ở một nơi, làm sao mà ăn, uống được mà cúng bái”. Những linh hồn này
hiện đang ở đâu, ăn uống được hay không, thật ra không quan trọng, hoàn toàn
không quan trọng! Ngày sinh nhật trong tình thương yêu có ăn uống, thì ăn
uống trong ngày giỗ nhớ thương cũng là chuyện tự nhiên, bình thường, vì ăn uống
là sinh hoạt tự nhiên nhất của con người. Rồi chả lẽ chúng ta ăn uống, rồi bày
hình cha mẹ, ông bà ra để ngó chúng ta ăn, mà không mời lấy được một tiếng? Chả
lẽ ngày xưa cha mẹ đút cho con nhỏ bé bỏng từng thìa, vừa đút vừa thổi cho
nguội để con ăn, khi con lớn thêm chút lại tiếp tục nhường nhịn từng miếng ngon
cho con; mà bây giờ con không ăn được đồ ăn mình bày ra mời cha mẹ?! Chỉ những
người điên hoặc ngu hết thuốc chữa mới nghĩ là cha mẹ, ông bà mình có quyền
phép như Thượng Đế nên phải cúng bái. Có những giáo điều từ thời Cựu Ước
là không thờ thần ngoại, ăn đồ tế các thần ngoại, rồi những điều cấm kỵ như
trên được các giáo sĩ Mỹ đầu thế kỷ 20 bưng nguyên si, rồi mở rộng hơn để đặt
vào Điều Lệ HTTLVN: Việc tổ tiên, cha mẹ là những con người bình thường được
thờ phượng theo truyền thống dân tộc, vì con cháu tôn kính, thương yêu, biết
ơn; đã bị những điều lệ này vơ đũa cả nắm, bóp méo và đồng hóa với thần
ngoại, ma quỉ rồi cấm tiệt (lý luận kiểu con bò có sừng, do đó tất cả các con
có sừng đều là bò). Sự cấm đoán này được củng cố bằng tinh thần giáo điều, xơ
cứng; và là những nguyên lý giả vì nó hoàn toàn không là cốt tủy của cuộc
sống con người, vì có nó cũng được, mà không có nó cũng không sao.
Con người hiện nay nhìn mọi sự nhẹ nhàng đi nhiều rồi.
3/Mẹ tôi năm nay 78 tuổi, sức khỏe rất yếu
sau khi bị té ngã nứt xương sống, lưng đi còng, siêu vẹo hẳn lại. Như nhiều
người già khác, bà đau tim, đau thận, tiểu đường, đủ thứ bịnh… Từ khi bố tôi
mất mấy năm nay, bà ở một mình trơ trọi, tinh thần suy xụp nên lại càng đau yếu
hơn. Nhiều lần xuống thăm bà thì bà đang ở bịnh viện. Vợ tôi có nhã ý mời bà về
ở chung, nhưng bà không về. Bà nói với tôi “từ ngày bố mất thì cúng bố mỗi
bữa cơm là niềm an ủi, nâng đỡ mẹ (đây là một tâm lý trị liệu rất tốt), dù vợ
con có lòng tốt, nhưng mẹ không muốn chuyện cúng bố, cúng ông bà khi ở chung
làm vợ con phiền lòng, dù không nói ra, vì mẹ biết là người Tin Lành được dạy
cái gì về chuyện thờ cúng”(ngoài phần bên vợ, trong đại gia đình tôi có 4
mục sư). Tôi đã thấy những phản ứng dữ dội, nghe những lời nói tổn
thương trước đó từ người Tin Lành. Nên dù thương mẹ, và mỗi lần chào từ giã tôi
đều nghĩ đây có thể là lần cuối, nhưng tôi đồng ý với mẹ tôi, để tránh ép lòng
vợ tôi, dù có lòng tốt, nhưng ép chỗ này sẽ xì chỗ khác, cả vợ lẫn mẹ sẽ khổ. Vấn
đề quan trọng đặt ra ở đây là chuyện nhỏ của gia đình tôi có thể là chuyện của
bất cứ gia đình nào có người phối ngẫu hay một vài thành viên là Tin Lành,
trong khi các đa số thành viên khác không là Tin Lành. Sẽ có những ông cụ,
bà cụ đau yếu, cả đời thương yêu, hy sinh cho con, nhưng chấp nhận chết trong
cô đơn, sầu khổ để tránh những sự bất hòa không đáng có. Sẽ có những đứa con
bất lực, ân hận vì không thể tìm được giải pháp nào khác.
Suy nghĩ về những gì đã
qua, nhận thấy những yếu kém, bất toàn của bất kỳ định chế nào rồi đề nghị cải
cách là con đường xoắn ốc nhân loại dùng để đi lên. Từ những tha hóa của Giáo
Hội La Mã (chỉ cần mở bất kỳ cuốn sách sử Tây Phương đại cương có uy tín nào,
ta cũng có đủ thông tin, sự kiện) mà nhu cầu cải cách phát sinh, và Tin Lành đã
ra đời. Nhiều người Công Giáo lúc đó đã chạm phải giới hạn gãy, không thể nào
không thay da, đổi thịt, và họ trở thành Tin Lành. Cuộc “cách mạng” Tin
Lành đã xảy ra đúng với qui luật tự nhiên: vạn vật luôn biến chuyển để tái lập
trạng thái cân bằng, dù tạm, hầu đối phó với những hoàn cảnh mới, thách thức
mới.
Khi thế giới bây giờ chỉ
là một cái xóm nhỏ trong vũ trụ bao la, khi hôm nay con người thường trực nhìn
lại vũ trụ, thường trực nhìn lại những định kiến của mình; thì cũng giống như
Công Giáo La Mã, Phật Giáo, Hồi Giáo … Tin Lành, đặc biệt là HTTLVN, không
thể nào là một biệt lệ khác biệt với tất cả những cái khác trong lịch sử
nhân loại. TLVN cũng phải đối diện những thách thức mà thời đại
đưa tới cho mọi tôn giáo là Faith and Reason, Interfaith Dialogue,
cũng phải xem xét lại những định kiến, nếp sinh hoạt của mình, nếu không
muốn tiếp tục phát triển quặt quẹo, sản xuất ra những con người có tư duy, cách
sống chi phối bởi một số điều luật sơ cứng của hàng ngàn năm trước, hay đi tới
sự dần dần tiêu vong.
Cái nhìn thiếu hài hòa
giữa Faith and Reason, và vắng bóng hoàn toàn Interfaith
Dialogue dẫn tới sự khó sống, khó hội nhập, khi óc phán đoán bị đui mù hay
nghèo nàn đi, khi không thể nào hiểu những quan điểm người khác chỉ vì khăng
khăng, do bị nhồi sọ “the only right way is our way”. Chính vì tinh
thần “the only right way is our way” nên TL và CG mới xung đột dữ dội, đẫm máu
từ đời này sang đời nọ; chứ không phải là do những người tham dự xung đột không
biết lời Chúa, không làm theo lời Chúa. Sống chung, làm việc chung với những
người có cách nhìn “the only right way is our way” là một cuộc chiến, hay
bất hòa liên tục, không bao giờ ngơi nghỉ dù là trong gia đình, hay bất cứ
cộng đồng, tổ chức xã hội nào, vì cái đúng hay những điều rất bình thường,
giản dị của mình có thể nằm trong phạm trù sai rất chật chội, khe khắt của
người theo chủ nghĩa “the only right way is our way”.
Hiện nay bắt đầu có một
số mục sư VN có học vị cao học, tiến sĩ thần học, tốt nghiệp tại Mỹ, Canada.
Đây là điều đáng mừng, nhưng cần lưu ý một số điểm:
-
Học vị mang tới một số kiến thức và phương pháp làm việc có bài bản,
những cách khác nhau để tiếp cận vấn đề; chỉ là điểm khởi đầu cho việc
nghiên cứu, cho sự nghiệp, không phải là điểm kết thúc. Sau khi có kiến thức,
phương pháp, việc biết nhìn thấy những vấn đề thiết yếu của VN, của tôn giáo
mình, tôn giáo người, của con người nói chung lại là một chuyện khác. Nhìn thấy
được và làm cái gì lại là một chuyện khác nữa.
-
Hãy “Vinh danh Thiên Chúa trên trời” bằng cách mang lại “Bình an dưới thế cho
người thiện tâm”. Mọi cung cách thờ phượng Thiên Chúa, những biện giải, giảng
kinh dù mang bất kỳ nhãn hiệu nào: truyền thống, bảo thủ, hay hiện đại,
cấp tiến… nhưng nếu không mang tới “Bình an dưới thế cho người thiện tâm” đều
vô nghĩa, cần xét lại.
-
Một số người TL rất nhỏ biết nhìn xuyên qua những cấm đoán của TL, biết tôn
trọng những giá trị văn hóa, truyền thống dân tộc, và những tôn giáo khác;
nhưng với tính chất cố hữu của người VN, lựa thái độ “dĩ hòa vi quí”, thụ động,
ngại không phát biểu về lập trường của mình, giới hạn trong việc tìm giải pháp
cá nhân, thay vì phát biểu với cộng đồng dù mình có điều không đồng ý với cộng
đồng. Đây là điều không tốt, “cái sảy nẩy cái ung” nếu không cất tiếng nói.
Người TLVN đang đứng
trước những bế tắc, khó khăn; có thể đối phó bằng giải pháp “đà điêủ chui đầu
xuống cát”, hay coi như không có “chó sủa mặc chó, đoàn lữ hành cứ đi”, dù
đã được báo động khẩn thiết; hay nhìn ra xem những tôn giáo khác đang làm
cái gì, lắng nghe nhịp thở của thời đại ra sao, hầu có thể ý thức và tìm cách
giải quyết 2 vấn đề “Faith and Reason, and embraces
ecumenical and Interfaith Dialogue“.
Đã đến lúc người Tin Lành
Việt Nam suy nghĩ và làm việc trên những chủ đề như Faith and Reason và
“Interfaith Dialogue“.
9/ Bài này được viết với
thiện chí xây dựng, tinh thần tích cực, nhưng tôi đã rất e ngại, do dự
khi viết bài này. Mặt khác, tôi nghĩ rằng việc thành thật trao đổi với
nhau là biểu hiện của sự kính trọng. “Biết người, biết ta”, chắc là quí
mục sư, quí tín hữu TL cũng muốn biết người khác nghĩ thế nào, để việc truyền
giảng lời Chúa có hiệu quả hơn. Dù viết sau một thời gian suy nghĩ, trăn trở,
nghiên cứu khá lâu, nhưng do trình độ rất hạn hẹp, nhận thức chủ quan nên chắc
chắn bài viết có những sai lầm, thiếu sót, có thể gây ra tổn thương, xúc phạm;
đây là việc ngoài ý muốn, xin quí vị tha lỗi. Chữ dùng có chỗ mạnh, gay gắt vì
dùng chữ khác thì không thể nêu lên cái tác động nhân quả và cường độ của
nguyên do. Kính xin độc giả đóng góp ý kiến, chỉ bảo, tôi cúi mình chân thành
lắng nghe. Tôi cũng hoan nghênh việc độc giả gửi bài này cho những người quan
tâm tới vấn đề.
Trân trọng
Lê Anh Dũng
(langnghetheky21@yahoo.com)
Xin
lưu ý:
Để tránh tạo hiểu lầm
ngoài ý muốn tác giả, xin quí vị muốn góp phần phổ biến thư mở (open
letter) này vui lòng giữ nguyên văn, không sửa chữa, biên tập lại những
chữ tôi dùng, dù có thiện chí làm cho nó tốt hơn. Xin cảm tạ.
Tác giả có thể sửa chữa
thư ngỏ này khi có những đóng góp của độc giả, hay có điều cần thay đổi, bổ
túc v.v… Để theo dõi sự thay đổi của nguyên bản, mỗi lần thay đổi tác giả
sẽ đánh số version, thí dụ: bản này là Open_letter_to_VNpastors_and_friends_V2.doc
vì đã có sửa chữa. Khi lưu hành xin giữ nguyên số version để dễ qui
chiếu.
Chú
thích:
1/ Hiện nay ở trong nước
cũng như ngoài nước đã có thêm những hội thánh Tin Lành VN thuộc vào những hệ
phái khác với những Hội Thánh phát xuất từ Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp
(CMA). Những hội thánh mới này có thể có tín lý, cách sống đạo khác với
CMA. Qua nghiên cứu, cũng như giao tiếp trực tiếp với tín hữu TLVN, tôi
nhận thấy có lẽ do CMA là tổ chức Tin Lành lâu đời nhất ở VN, có guồng máy tổ
chức và đào tạo qui mô nhất VN, do đó có ảnh hưởng rộng, sâu nhất VN, và
tuyệt đại đa số mục sư VN có gốc rễ từ những tiền bối tới từ CMA, nên tinh thần
của đại đa số tín hữu TLVN vẫn có nét chủ đạo tới từ CMA.
2/ Trong bài tôi phải
dùng một số chữ bằng tiếng Anh như “negative, positive …” thay vì dùng tiếng
Việt. Không phải do tiếng Việt thiếu chữ tương đương, hay tôi sính tiếng nước
ngoài; nhưng có những chữ phải dùng tiếng Anh mới lột hết ý nghĩa và nêu lên
tác động của nó, vì con người lẫn văn hóa, nền giáo dục VN không có những trải
nghiệm tương đương.
Những chữ như “negative,
positive” là những chữ mà em bé 6, 7 tuổi ở Mỹ đã được học hỏi và nhắc nhở ở
trường, trong khi đó ở VN quan niệm “tiêu cực, tích cực” được học ở hoàn cảnh,
văn hóa khác, gây một cảm nhận khác.
Phân biệt “tiêu cực” và
“negative” để chứng minh là lối nói “ “negative” sẽ gây dị ứng mạnh hơn với
những người VN có quá trình sinh sống, hội nhập xã hội Tây Phương lâu
hơn.
3/ Trong phần 4/Faith
and Reason? hay Faith and No Reason? không mục sư nào được nêu tên cụ
thể. Lý do là nêu lên sự kiện có thật để dẫn chứng cho biện luận, nhưng
hoàn toàn không nhằm chỉ trích bất cứ cá nhân nào, do đó không nêu tên.
4/
Lịch sử Hội Thánh Tin Lành VN
(1911-1965), viết tắt là LSHTTLVN, tác giả Mục sư Tiến Sĩ Lê Hoàng Phu, Nhà
xuất bản tôn giáo, 2010, 53 Tràng Thi Hà Nội.
41
năm hầu việc Chúa với HTTL Việt Nam, viết tắt là HVC, tác giả Irving R.
Stebbins & Thomas H. Stebbins, published by Spiritual Light Magazine,
Akron, Ohio, Copyright 2004 Spiritual Light Magazine.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét