1/ Định nghĩa nhân đức.
Aristotle định nghĩa : “Nhân đức là cái đem đến điều tốt cho con người và làm cho hành động của họ trở nên tốt.”
Thánh Augustinô, khi nói về nhân đức phú bẩm thì nói : “Nhân đức là một phẩm chất tốt của linh hồn giúp cho con người sống tốt và không làm điều xấu, phẩm chất này do Chúa ban, mà không cần đến sự giúp đỡ của con người.” Ngày nay các nhà thần học định nhĩa : “Nhân đức là một tập quán tạo nên khuynh hướng và sức mạnh để sẵn sàng làm điều tốt về luân lý.” Vì thế, chỉ có khuynh hướng về điều tốt mà thôi chưa đủ - mặc dù yếu tố này là căn bản và không thể thiếu của nhân đức – nhưng con người cần có quyền trên các đòi hỏi tinh thần cũng như khả giác (spiritual and sensual drives) và trên các đam mê (passions), để lúc nào cũng sẵn sàng làm những điều tốt mà con người ngưỡng mộ và yêu mến. Xét cho cùng, mọi nhân đức đều hướng về sự thiện tối thượng là Thiên Chúa.Aristotle định nghĩa : “Nhân đức là cái đem đến điều tốt cho con người và làm cho hành động của họ trở nên tốt.”
Nên phân biệt giữa nhân đức và ơn Chúa Thánh Thần (wisdom, intelligence, science, counsel, fortitude, piety, fear of God). Ơn Chúa Thánh Thần là những tập quán đi kèm với ơn thánh, nhờ đó con người được chuẩn bị tốt để nhận sự soi sáng và thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Khi thực hành nhân đức, chính lý trí con người điều khiển, còn đối với ơn Chúa Thánh Thần thì chính Chúa Thánh Thần soi sáng và thúc đẩy con người đến sự thiện.
2/ Các nhân đức khác nhau.
(1) Xét về nguồn gốc : nhân đức tự luyện và nhân đức phú bẩm (acquired and infused). Tự luyện là do cố gắng của con người mà có, còn phú bẩm là do Chúa ban nhưng không (nhiều vị thánh được Chúa ban ơn đặc biệt, không cần học : thánh Catarina Siena, Têrêsa Avila). (2) Xét về đối tượng, các nhân đức được chia ra : a/ Nhân đức trí tuệ (intellectual virtues) giúp con người hiểu biết chân lý : hiểu biết, khôn ngoan, kiến thức, nhạy bén và nghệ thuật (understanding, wisdom, knowledge, prudence, art); b/ Nhân đức luân lý, cũng gọi là nhân đức trụ (moral or cardinal virtues) giúp con người sử dụng đúng đắn và hữu hiệu các phương tiện dẫn tới mục đích siêu nhiên : nhạy bén, công bình, can đảm và tiết độ (prudence, justice, fortitude, temperance); c/ Nhân đức đối thần, có đối tượng trực tiếp là Thiên Chúa và được Thiên Chúa mạc khải : đức tin, đức cậy và đức mến (faith, hope, charity). Các nhân đức luân lý có ba đặc tính : không cực đoan, có liên hệ với nhau (interconnected) và không đồng đều. Còn các nhân đức trí tuệ và đối thần thì không liên hệ với nhau : người có đức tin không nhất thiết có đức cậy, đức mến; người hiểu biết không nhất thiết là khôn ngoan (cf Prummer, p. 80).
3/ Những điều kiện căn bản của nhân đức.
(1) Hiểu biết và khôn ngoan : con người không thể phát triển nhân đức nếu không hiểu biết giá trị luân lý của nhân đức. Vì vậy vấn đề giáo dục và huấn luyện là cần thiết. Hiểu biết các giá trị rồi còn cần phải biết khôn ngoan áp dụng sao cho đúng cách, hợp thời, hợp tình hợp lý cho từng trường hợp cụ thể, tương ứng với mục đích trước mắt. (2) Yêu mến giá trị luân lý. Chỉ hiểu biết theo lý trí trừu tượng không thể làm nên nhân đức, nhưng phải có lòng say mê yêu mến giá trị luân lý mới kích thích con người thực hành nhân đức. (3) Khuất phục và làm chủ các đam mê. Mặc dù hiểu biết và yêu mến giá trị luân lý, nhưng nếu không khống chế các đam mê, thì các đam mê này sẽ bóp nghẹt, giết chết lòng yêu mến đó. Cho nên phải kiềm chế các đam mê bằng cách kiên trì khổ luyện, tập đi tập lại nhiều lần, cho tới khi trở thành một tập quán.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét