Từ tình trạng nguyên thủy, con người được siêu nhiên hóa ngay từ khi
tạo dựng. con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, nên con người trở
thành thụ tạo cao quý. Con người được trao cho quyền làm chủ vạn vật. Truyền
Thống và các Lời Huấn Dạy của Giáo Hội cho thấy chân lý này là con người được
dựng nên “giống hình ảnh Thiên Chúa” luôn luôn là trung tâm điểm của mạc khải
Kitô giáo.
Con người, hình ảnh Thiên Chúa là một chủ thể cốt yếu để có thể hiểu được ý nghĩa Thánh Kinh về bản thể của con người. "Hình ảnh Thiên Chúa" là cụm từ được xem như là một định nghĩa về con người, bí nhiệm về con người không thể hiểu được, nếu tách rời con người ra khỏi mầu nhiệm của Thiên Chúa. Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta một nhãn quan về bản tính của con người, trong đó chiều kích thiêng liêng được hiểu như là một tổng hợp của các phương diện thể lý, xã hội và lịch sử con người. Và với sự tự do, con người đã kiêu ngạo, đã mất ân huệ ban đầu khi không tuân lệnh Ngài. Nhưng Thiên Chúa vẫn tìm cách cứu lấy con người theo kế hoạch của mình.
Con người, hình ảnh Thiên Chúa là một chủ thể cốt yếu để có thể hiểu được ý nghĩa Thánh Kinh về bản thể của con người. "Hình ảnh Thiên Chúa" là cụm từ được xem như là một định nghĩa về con người, bí nhiệm về con người không thể hiểu được, nếu tách rời con người ra khỏi mầu nhiệm của Thiên Chúa. Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta một nhãn quan về bản tính của con người, trong đó chiều kích thiêng liêng được hiểu như là một tổng hợp của các phương diện thể lý, xã hội và lịch sử con người. Và với sự tự do, con người đã kiêu ngạo, đã mất ân huệ ban đầu khi không tuân lệnh Ngài. Nhưng Thiên Chúa vẫn tìm cách cứu lấy con người theo kế hoạch của mình.
Con người từ tình trạng tội lỗi được trở nên công chính và hơn thế nữa
được làm con Thiên Chúa và được gọi Thiên Chúa là Cha. Bởi đâu con người được
diễm phúc này, đó là nhờ tình yêu vô bờ của Thiên Chúa. Chính nhờ ân sủng mà con
người không còn nô lệ cho tội lỗi, được biến đổi nên người công chính và lấy
lại những gì đã mất. Điều này cho thấy con người là một thụ tạo cao cả ngay từ
khi tạo dựng. Con người được siêu nhiên hóa ngay từ ban đầu và việc siêu nhiên
hóa này làm cho con người không phải là thụ tạo tầm thường mà được thông dự vào
thần tính Thiên Chúa.
I/ THIÊN CHÚA SIÊU
NHIÊN HÓA CON NGƯỜI
1/ Thiên Chúa phác họa, bàn bạc để dựng nên con người
Trong hai
trình thuật sáng tạo vũ trụ và con người, tác giả dùng từ và ý để nhận diện
được tình trạng nguyên thủy của con người trong tương quan với Thiên Chúa. Khi
nói đến việc tạo dựng con người, là chóp đỉnh của tạo thành, lời văn mang một
vẻ trịnh trọng đặc biệt để nói lên việc tao dựng và siêu nhiên hóa con người.
Tác giả lại còn hình dung như Thiên Chúa suy tính, bàn bạc với chính mình trước
khi làm việc quan trọng này: “Chúng Ta làm ra con người theo hình ảnh Chúng Ta”.
Thiên Chúa tạo
dựng nên con người không có ý chỉ một người nào nói riêng, nhưng là loài người
nói chung. Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh Thiên Chúa, giống như
Thiên Chúa. Đây là ân sủng cao quý mà Thiên Chúa đã siêu nhiên hóa con người.
Con người tính chất linh thiêng, gần gũi Thiên Chúa và cao trọng hơn các loài
khác, vì có trí khôn và tự do. Giống như Thiên Chúa, con người được quyền bá
chủ, cai quản muôn loài, như người đại diện của Thiên Chúa.[1] Khi
nói đến việc sáng tạo trong sách Sáng Thế, Origène đã nhận định: “Thiên Chúa
tạo dựng con người sau cùng, không phải vì con người ở bậc thang rốt hết trong
các thụ tạo, mà vì họ là vua vũ trụ, xuất hiện sau khi vũ trụ đã được tổ chức”.[2]
Thiên Chúa đã làm chủ khi tạo dựng và không nhờ cậy ai, chỉ có quyền năng Lời
của Ngài phán mà mọi vật được dựng nên. Nhưng khi Ngài dựng nên con người thì
Ngài đã bàn tính với sự trịnh trọng: Ta hãy dựng nên... Điều này nói lên một vị
thế cao cả của con người và con người được trao ban cho quyền làm chủ đất đai,
cây cối và thú vật. Mọi vật dựng nên mà Thiên Chúa không có cuộc bàn tính nào
cả nhưng dựng nên con người thì Thiên Chúa đã có cuộc bàn tính trước: Ta hãy
dựng nên con người giống hình ảnh Ta. Đây là một kiểu nói trịnh trọng nói lên
sự cao trọng của con người mà Thiên Chúa đã siêu nhiên hóa.[3]
2/ Tạo dựng con người.
Thiên
Chúa sáng tạo con người từ bùn đất và qua hành vi nặn và thổi “sinh khí” vào nó. Kiểu nói này
diễn tả hành động tạo dựng con người của Thiên Chúa rất cẩn thận và rất cao cả.
Tất cả các hành động sáng tạo con người đều nói lên Thiên Chúa sáng tạo con
người theo ý Ngài muốn và con người hoàn toàn tuỳ ở Thiên Chúa, đồng thời nói
lên thân phận mỏng giòn của con người “là bụi đất” và cũng là loài có sinh linh
có hồn sống động qua việc thổi “sinh khí” của Thiên Chúa.[4]
Tác giả Thánh Kinh dùng
hình ảnh tay thợ gốm nặn thành con người. Con người là gì thì hoàn toàn ở ý
Thiên Chúa. Tác giả hình dung việc dựng nên con người làm bằng đất để nói rằng
bản chất con người là mỏng giòn, yếu đuối và con người có liên hệ mật thiết bụi
đất. Thiên Chúa thở hơi sống vào mũi, qua đó Thiên Chúa ban sự sống: con người
là từ bụi đất, nhưng sự sống là do Thiên Chúa ban, một ân huệ cao cả mà Thiên
Chúa ban cho con người. Như vậy tác giả mô tả Thiên Chúa làm một việc cụ thể,
nhưng tác giả không có ý nói con người được làm nên cách nào mà nói con người
là bởi Thiên Chúa. Như thế, là loài có sự sống, con người gần với Thiên Chúa
hằng sống. Nhờ sinh khí được thổi vào mà con người được tạo dựng và giống hình
ảnh Thiên Chúa. Từ vật chất Thiên Chúa đã siêu nhiên hóa con người ngay từ khi
tạo dựng.
Thiên Chúa dựng nên con
người có nam có nữ. Sự sáng tạo được thể hiện trong phái nam cũng như phái nữ,
cả hai đều là hình ảnh Thiên Chúa trong sự bình đẳng giữa hai phái, và việc
truyền sinh đều do ý Thiên Chúa. Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ và người nữ được tạo dựng từ người nam. Như thế, hôn nhân có
tính cách duy nhất và bền bỉ được bắt nguồn ngay từ bản chất đầu tiên, đồng
thời việc truyền sinh là một ân sủng cao cả của con người được tham dự vào công
việc sáng tạo của Thiên Chúa (St 1,27-28).
Hành động
“Nặn” nói lên cử chỉ đặc biệt Thiên Chúa tạo nên thân xác và thổi sinh khí là
ban “Hồn” cho con người. Như thế Thiên Chúa ban đặc ân xác và hồn cho con
người. Xác con người nhận được đặc ân trừ nhiên là bất tử; xác con người không
bệnh tật hay già đi. Hồn con người là hơi thở Thiên Chúa thổi vào và tạo nên sự
sống. Đây là sự sống thiêng liêng mà con người được tham dự vào sự sống Thiên
Chúa. Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài nên con người vượt trên
mọi thụ tạo dường bao. Và con người được ban những đặc ân hồn xác, đặc ân nơi
trí khôn và ý chí để con người hiểu biết, làm chủ bản thân và vạn vật. Hành
động và những kiểu nói của Thiên Chúa đã lộ rõ ý nghĩa siêu nhiên hóa con
người.
3/ Con người sa
ngã
Ân sủng sáng tạo ban đầu là điều tốt đẹp mà
Thiên Chúa dành cho con người nhưng vì sự yếu đuối, ngày từ đầu con người đã
phản bội Thiên Chúa và mang lấy ách tội lỗi. Sa
ngã[5]
của con người nói lên việc tội lỗi xâm nhập và gây ra các thảm họa. Tác giả
Sáng Thế chủ tâm mô tả một chuỗi những sự kiện vạch ra con đường con người đã
đi, những sự kiện đem lại cho họ những hậu quả không thể đảo ngược. Tác giả mô
tả những việc đó bằng một ngôn ngữ và với một hình thức tường thuật câu chuyện
xảy ra bên trong giữa nhân loại và Thiên Chúa.
Như vậy qua hành vi sa ngã của con người, con
người đã phá vỡ kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa, tự mình xa rời Thiên Chúa. Con
người mất đi sự hòa hợp với đồng loại và thiên nhiên, còn bản thân thì bị chi
phối bởi các dục vọng, phải đau khổ và cuối cùng phải chết. Tội lỗi và hậu quả
của nó được tác giả khái quát tình trạng xa rời Thiên Chúa của con người
Lời
hứa ban ơn cứu độ[6]
nói lên lòng chờ mong tin tưởng vào ơn cứu độ. Thiên Chúa không để cho con
người bị thua thiệt và luôn tìm cách nâng con người lên. Từ ân huệ ban đầu,
Thiên Chúa đã siêu nhiên hóa con người nhưng con người đã đánh mất, và rồi
Thiên Chúa yêu thương, cứu con người khỏi tội và thần hóa con người trong máu
Đức Kitô.
4/ Tham dự bản tính
Thiên Chúa
Về ý tưởng thần học về
tham phần vào bản tính Thiên Chúa, người ta có thể hiểu theo và nghiêng về một
chiều hướng nào đó. Do đó sẽ có những cách hiểu bất cập hoặc thái quá. Để tránh
bất cập, ta không nên nói rằng thông phần chỉ là kiểu nói hay thuộc phạm vi
luân lý. Và cũng để tránh thái quá, ta không nên nhìn nhận Thiên Chúa và thụ
tạo cùng chung một bản tính. Bất cập là thái độ chủ trương duy lý hay bán duy
lý, muốn thủ tiêu mầu nhiệm. Thái quá tạo nên ngụy thần bí. Và vì vậy, các nhà
thần học đưa ra hai ý kiến chung: thông phần vào Thiên Chúa, ở chỗ đạt được đối
tượng là chính Thiên Chúa (khách quan). Còn chủ quan là có cái gì mới để đạt
được đối tượng đó. Nhưng thực tại này là tùy thể và nhờ ân sủng, con người có
thể chạm đến yếu tính Thiên Chúa. Tuy nhiên, ý kiến này muốn trốn khó hiểu của
mầu nhiệm. Ý kiến 2 cho rằng trong nội tại của con người có một thực tại; thực
tại này là một phần bản tính Thiên Chúa, con người nên giống Chúa theo mức độ
“động và tĩnh”.
Người ta xét thông phần
bản tính Thiên Chúa theo thể Động, nghĩa là thông phần trí năng, thông phần đạt được yếu tính Người ở trần
gian bằng việc hưởng kiến, và thông
phần ý chí là có sự sống của Thiên Chúa. Còn xét thông phần theo thể
Tĩnh, thì con người thông phần bản tính Thiên Chúa bằng cách loại suy.
Sự thông phần bản tính Thiên Chúa của con người cũng theo cấp độ khác
nhau; thông phần cách chất thể của loài vô linh là dấu vết Thiên Chúa,
còn thông phần cách mô thể của loại con người đó là hình ảnh Thiên Chúa. Thông
phần bản tính Thiên Chúa của loại con người chuyển thông từ Thiên Chúa vào thụ
tạo. Có ba cuộc chuyển thông; thượng
ngôn chuyển thông hữu thể cho nhân tính nơi Đức Kitô, Thiên Chúa tự chuyển thông mình vào tâm hồn
người được công chính hóa, rồi
vào tâm hồn các thánh nhân. Trong ba cuộc chuyển thông này, chuyển thông đầu
tiên được thực hiện một cách trực tiếp, hai chuyển thông sau được thực
hiện qua ân sủng và ánh quang. Hơn hết, chuyển thông nơi Đức Kitô mang tính bản
thể và trực tiếp, còn chúng ta được thực hiện cuộc chuyển thông chỉ mang tính
tuỳ thể và gián tiếp.[7]
II/ NHỚ NHUNG ÂN HUỆ BAN ĐẦU
Trong Cựu ước, vì lỗi phạm mà dân Chúa phải đi lưu đày,
Giêrusalem bị bỏ rơi và thất sủng. Giờ đây họ chỉ biết khóc than cho số phận và
nhớ nhưng những điều tốt đẹp ban đầu mà Thiên Chúa ban cho họ. Nay họ tan mác
khắp nơi và chịu nhiều nỗi khổ đau và đền thờ Giêrusalem thì đã bị phá hủy. Họ
than trách “cha ông chúng con phạm tội, nhưng đã khuất, chúng con nay
gánh chịu vạ các ngài gây nên”[8].
Biết bao điều khổ cực làm cho họ nhớ lại đời sống tốt đẹp xưa kia và khấn nài
Đức Chúa thương đến họ và đưa họ trở về: “Xin đưa chúng con về với Ngài, lạy Đức
Chúa, để chúng con trở về. Xin đổi mới cuộc đời chúng con cho được như thời xa
xưa ấy”[9].
Khi đi đày, họ ước mong về đền thánh Chúa: “Mảnh hồn này khát khao mòn mỏi mong
tới được khuôn viên đền vàng. Cả tấm thân con cùng là tấc dạ những hướng lên
Chúa Trời hằng sống mà hớn hở reo mừng”[10].
Họ nhớ nhung biết bao về đền thánh khi ở nơi đất khách quê người. Họ mong được
trở về quê hương xứ sở để có một cuộc sống hạnh phúc trong ân sủng của Thiên
Chúa: “Một ngày tại khuôn viên thánh điện quý hơn cả ngàn ngày. Thà con ở cổng
đền Thiên Chúa vẫn còn hơn sống trong trại ác nhân!”[11]
Cũng trong sự nhớ nhung, hối tiếc, ông Gióp từ một người
sang trọng trở thành kẻ thấp hèn. Và ông Gióp được mô tả là một
người đàn ông công chính
trước mặt Thiên Chúa, và thực sự là người đàn ông công chính nhất được tìm thấy trên trần
gian, nhưng Sa-tan cho rằng ông được công chính là do nhận được phúc lành Thiên Chúa. Thiên Chúa đã đặt một hàng rào bảo
vệ ông và đã chúc lành cho ông vượt qua tất cả. Do đó, ma quỷ đã dùng mọi cách để thử
thách ông. Thách đố đến từ sự ác liệu có
làm cho ông chê trách Thiên Chúa và
phá bỏ sự bảo vệ của Ngài hay không.
Đau khổ của ông Gióp đã
làm cho ông nhanh chóng càng
ngày càng tồi tệ hơn. Đau khổ của
ông rất mãnh liệt đến nỗi ông
thấy mình đang ngồi trên một đống phân, nguyền rủa ngày ông được sinh ra, và khóc
lóc trong đau khổ không ngừng. Ngay cả vợ của ông khuyên ông
nguyền rủa Thiên Chúa, và
chết đi để thuyên giảm đau đớn của
mình. Ông đã luyến tiếc nhớ nhung một thời vàng son của mình. Ông muốn
đừng có cảnh khổ cực này xảy ra: “Phải chi đừng xuất hiện ngày tôi đã chào đời”[12]
Tuy nhiên ông không một lời quở trách Thiên Chúa và ông chấp nhận mọi điều xảy
đến với ông: “chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ, lại không
biết đón nhận sao? " Trong tất cả những chuyện ấy, ông Gióp không để cho
môi miệng thốt ra lời tội lỗi.[13] Do trung
thành với Thiên Chúa mà ông đã được Chúa đoái thương, gìn giữ ông và trả lại
tất cả mọi tài sản, danh dự cho ông gấp trăm lần xưa kia.
III/ ÂN SỦNG CỨU ĐỘ VÀ THẦN HÓA CON NGƯỜI
1/ Con người đánh mất ân sủng và gây hậu quả
Tội nguyên tổ đã làm cho con người mất ân sủng và
đẩy con người vào vòng nô lệ tội lỗi. Do đó con người đành phải hư mất trong
cái chết mất hết tự do. Đánh mất ân sủng, con người làm hư mất hình ảnh Thiên
Chúa mà Ngài đã dựng nên, và mất đặc ân trừ nhiên. Mất các đặc ân, xác con
người không còn bất tử và mất luôn điều mà “con người sẽ sống mãi ở trong Lạc
Viên thân mật với Thượng Đế”[14]. Tội
làm mất đặc ân không hư nát mà Thiên Chúa ban cho con người ngay sau khi phạm
tội. Mất ân sủng làm cho con người trầm luân trong tội lỗi và cuộc sống lầm
than khổ cực. Tuy nhiên, con người cũng không bị mất ân sủng đời đời, mà sau
khi nguyền rủa kẻ gây cớ cho nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã hứa sẽ ban ơn
cứu độ cho con người. Và Thiên Chúa đã có kế hoạch cứu độ và lấy lại ân sủng
cho con người qua Đức Ki-tô. Nhờ Mầu nhiệm Nhập thể, Thiên Chúa đã đưa con
người vào lại trong mối tương quan với Ngài khi tuân giữ lề luật và tôn thờ
Thiên Chúa như thánh Gioan đã nói: “Lề
Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức
Giê-su Ki-tô mà có”[15].
Đó là cách thế duy nhất để con người lấy lại ân sủng thuở ban đầu và tham dự
vào nguồn ân sủng sung mãn vô bờ nơi Thiên Chúa”.
2/ Ân sủng làm cho con người nên công chính
Con người đã
đánh mất ân sủng ban đầu và Thiên Chúa đã ban Con Một của Ngài để ban lại ân
sủng và cứu chuộc con người. Thiên Chúa không muốn con người phải hư mất. Nên Thiên
Chúa chuẩn bị một cách thế này để cho con người được tham dự vào Tình Yêu của
Ngài. Trong Cựu ước, một hình ảnh tiên trưng để cứu độ dân Ngài là con chiên bị
sát tế và máu nó đã cứu dân Ngài khỏi cảnh diệt vong. Và Tân ước nhắc lại hình
ảnh máu con chiên bị sát tế trong Cựu ước đó để nhắm đến một cuộc hiến tế của
chính Con Chiên Vẹn Toàn là Đức Ki-tô cho nhiệm cuộc cứu độ. Cái giá máu của
Đức Kitô đổ ra để “chuộc lấy” hay “trả giá đắt” cho một cuộc trao đổi và chiến
thắng sự dữ. Thánh Phaolô diễn tả cuộc trả giá nhưng không mà con người nhận
được từ Thiên Chúa. Máu của Đức Kitô đã lập nên Giao ước vĩnh cửu để ký kết với
nhân loại. Điều này được chứng thực, khi Đức Ki-tô mặc lấy xác phàm và “máu
Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội”[16]. Ân
huệ mà con người nhận lãnh từ Thiên Chúa không phải do công trạng của mình,
nhưng chính Thiên Chúa ban cho nhân loại. Con người đã đánh mất ân sủng trong
vườn Địa Đàng và chẳng còn đáng được hưởng nữa, nhưng vì lòng khoan dung và yêu
thương của Thiên Chúa, “chúng ta được Thiên Chúa tiếp nhận và cứu chuộc, cuộc đời
chúng ta được khắc ghi trong chân trời ân sủng”[17]. Ân
sủng là một ân ban nhưng không, khởi xuất do lòng sủng ái của Thiên Chúa và nhờ
có ân sủng mà con người lấy lại được những gì đã mất, không còn nô lệ cho tội
nữa. “Tội lỗi sẽ không còn quyền chi
đối với anh em nữa, vì anh em không còn lệ thuộc vào Lề Luật, nhưng lệ thuộc
vào ân sủng”(Rm 6,14). Và “Ân
sủng là một ân huệ, một trợ giúp nhưng không mà Thiên Chúa ban để chúng ta đáp
lại tiếng gọi của Người : Trở thành con cái Thiên Chúa, làm nghĩa tử, tham dự
vào bản tính Thiên Chúa và vào sự sống đời đời”.[18]
Thực vậy, khi con người đón nhận ân sủng là con người sống trong tương quan
tình yêu và lấy lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu lúc tạo dựng.
Nhờ ân sủng, con người được công chính hóa, con người không còn là tội
nhân trước mặt Chúa. Thiên Chúa yêu thương và ban ân sủng cho con người, nhưng
đàng khác con người phải hoán cải chính mình, để tham dự vào đời sống của Thiên
Chúa. ơn công chính hoá sẽ mở đầu cho
sự cộng tác giữa ân sủng Thiên Chúa và sự tự do của con người.[19] Ơn công
chính khai hoá con người nội tâm và cải biến toàn bộ con người : “Giờ đây anh em đã được giải thoát khỏi ách
tội lỗi, mà trở thành nô lệ của Thiên Chúa, anh em được kết quả là được trở nên
thánh thiện và rốt cuộc được sự sống đời đời”[20].
3/ Ơn công chính thần hoá và làm cho con người nên nghĩa tử
Ân sủng là việc biến cải con người nên hoàn thiện và được Thiên Chúa ở
cùng. Điều này cho thấy con người liên
hệ mật thiết với Thiên Chúa, nhưng con người được trả lại hình ảnh Thiên
Chúa nơi mình và phục hồi tình trạng thuở ban đầu. Ân sủng phát sinh do việc
nhập thể của Ngôi Hai Thiên Chúa, đồng thời ân sủng này được Thiên Chúa trao ban
qua Đức Kitô cách nhưng không. Con người được thần hoá là nhờ vào sự hiệp nhất
trong tình yêu và ân sủng mà Thiên Chúa đã thiết lập trong mối tương quan Ngôi
vị của Thiên Chúa. Đó cũng là kết quả của sự hiện diện hữu thể của Thiên Chúa.
Nhờ ơn công chính con
người được tham dự bản tính Thiên Chúa, từ thù nghịch thành bạn hữu của Thiên
Chúa và là người nhà của Thiên Chúa. Ơn công chính hoá như là mối tương quan tử
hệ của con người với Thiên Chúa “Anh em không lãnh nhận thần khí nô lệ để anh
em phải sợ hãi, trái lại anh em đã lãnh nhận Thần Khí ban ơn làm nghĩa tử; nhờ
đó, chúng ta kêu lên Abba, lạy Cha. Chính Thánh Thần chứng thực cho linh tính
ta rằng, chúng ta là con cái Thiên Chúa, mà nếu đã là con, tất cũng là kẻ thừa
tự, thừa tự của Thiên Chúa và đồng thừa tự với Đức Kitô. (Rm 15,17). Theo Giáo
Lý Công Giáo: “Được làm nghĩa tử tức là nhờ Ân sủng con người được tham dự bản
tính Thiên Chúa, được ban một giá trị thực sự chiếu theo sự công chính của
Thiên Chúa. Đó chính là một quyền do Ân sủng, một quyền đầy đủ của tình yêu làm
cho ta đồng thừa tự với Đức Kitô và đáng được lãnh nhận gia tài đã hứa là sự
sống đời đời[21]. Ơn công
chính hóa làm cho con người hoán cải, giải thoát con người và thanh luyện tâm
hồn khỏi tội lỗi nghịch với tình yêu Thiên Chúa. Chính nhờ cuộc khổ nạn của Đức
Kitô, chúng ta được công chính hóa nhờ bí tích Thánh tẩy và ơn công chính hóa
ban cho ta sự sống vĩnh cửu. Ơn công chính hóa không những trả lại cho ta ơn
siêu nhiên hóa ban đầu mà con cứu chúng ta khỏi tội lỗi, làm cho ta trở nên
nghĩa tử Thiên Chúa, có nghĩa là con người chúng ta được thần hóa, cao trọng
gấp bội tình trạng nguyên thủy. Và con người được sống trong tương quan với
Thiên Chúa: “Nhờ Chúa Kitô, Thiên Chúa cho ta những sự cao cả Ngài đã hứa, do
đó chúng ta thông phần bản tính Thiên Chúa”[22].
Nhờ ân sủng, tài năng con người có thể chạm đến yếu tính của Thiên Chúa.
Kết luận
“Thiên Chúa là
Tình Yêu” (1Ga 4,8) như thánh Gioan đã nói. Cho nên khi dựng nên vũ trụ này,
vạn vật trong đó đều tốt đẹp. Hai tường thuật công trình sáng tạo của sách Sáng
Thế nói rõ rằng con người được tạo dựng nên không phải như là một cá nhân đơn
độc mà con người hiện hữu trong mối tương quan với Thiên Chúa, trong mối tương
quan với những người khác và trong mối tương quan với thế giới và với chính
mình. Con người là loài cao cả như Thánh Vịnh đã nói: "Chúa cho con người
chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho
làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân" (
Tv 8, 6-7). Trong Hiến Chế Gaudium et spes nói đến việc con người được
siêu nhiên hóa: "Thật vật, Thánh Kinh dạy rằng con người được dựng nên
"theo hình ảnh Thiên Chúa", có khả năng hiểu biết và yêu thương Đấng
Tạo Hoá dựng nên mình, là Đấng đã thiết định con người làm chủ nhân mọi tạo vật
trần thế, để thống trị chúng và để dùng chúng làm vinh danh Chúa"[23].
Có thể nói "hình ảnh Thiên Chúa" là định hướng căn bản của con người
hướng về Thiên Chúa, là nền tảng của phẩm giá con người, là cùng đích và là
việc nhận lấy quyền làm chủ vạn vật. Như vậy, “hình ảnh Thiên Chúa” là khuôn
mẫu tạo nên con người và từ khuôn mẫu đó làm cho con người được siêu nhiên hóa
ngay từ ban đầu lúc tạo dựng.
NVT.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét