Tháng 11 dương lịch trong năm là tháng người
Công giáo tưởng nhớ và cầu nguyện cho những người đã khuất. Còn các Phật tử lại
dành cả tháng 7 âm lịch để làm công việc ấy. Những người đã khuất là tổ tiên,
có thể là ông bà, cha mẹ… Chính vì thế, hai tháng ấy cũng là hai tháng nhắc nhở
tín đồ hai tôn giáo về lòng hiếu thảo, và những việc làm thảo hiếu đối với cha
mẹ, ông bà, tổ tiên đã khuất núi hoặc còn đang sống.
Tinh thần hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ khi
còn sống, và đặc biệt khi đã khuất là một đặc tính gắn liền với bản chất của người
Việt Nam,
và cũng là một điểm luân lý chung quan trọng trong các tôn giáo Á
Đông cũng như trong Ki-tô giáo. Trước đây, chính vì thiếu tinh thần hội nhập văn
hóa trong vấn đề đạo hiếu đối với tổ tiên mà biết bao người dân Việt Nam trước
Công Đồng Vatican II đã bị ngăn trở không trở thành Ki-tô hữu được. Vì thế,
ngày nay, HĐGMVN đã coi đạo hiếu như một yếu tố văn hóa quan trọng làm điểm
dựa và điểm xuất phát cho việc hội nhập văn hóa sứ điệp Ki-tô giáo tại Việt Nam.
Vậy tháng 11 cũng là dịp để chúng ta đào sâu về đạo
hiếu trong chiều hướng hội nhập văn hóa tại quê hương chúng ta.
Vào Đề
Tinh thần hiếu thảo đối với cha mẹ tổ tiên từ xưa
đến nay luôn luôn là một điểm son trong nề nếp văn hóa của người
Á Đông nói chung, và của người Việt Nam nói riêng. Người Việt Nam cũng
như mọi dân tộc Á Đông khác, thiên về tình cảm, và đương nhiên tình cảm đó được
thể hiện ưu tiên và nhiều nhất đối với cha mẹ, là người sinh thành ra mình, đồng
thời yêu thương và hy sinh cho mình nhiều nhất trên đời. Vì thế, ngay từ nguyên
thủy, các dân tộc Á Đông đã có một đạo phổ thông là đạo thờ cúng Tổ Tiên,
còn gọi là đạo Ông Bà, coi việc hiếu thảo với cha mẹ và tổ tiên
khi còn sống cũng như khi đã khuất là một bổn phận hết sức quan trọng.
Hiện nay, tại Việt Nam cũng như tại Á Đông nói chung, đạo
thờ cúng Tổ Tiên vẫn còn là một đạo nền tảng. Cụ thể là trong số những người
không theo một tôn giáo chính lưu nào, thì đa số xưng mình là theo đạo thờ cúng
Tổ Tiên hay đạo Ông Bà.
Tâm thức của người Việt Nam hay Á Đông
là như thế. Vì thế, để hội nhập văn hóa sứ điệp Kitô giáo vào lòng dân tộc,
chúng ta không nên bỏ qua yếu tố văn hóa hết sức nền tảng này. Có lẽ chính vì
thế, mà trong Thượng Hội Đồng Giám Mục Á châu vừa qua (năm 1998), các giám mục
Việt Nam đã nêu lên vấn đề này như một yếu tố văn hóa quan trọng
mà người Kitô hữu phải quan tâm để hội nhập văn hóa sứ điệp Kitô giáo vào lòng
dân tộc. Đó quả là một định hướng sáng suốt trong lãnh vực hội nhập văn hóa.
Để hội nhập văn hóa đúng theo đường hướng Giáo Hội,
trước tiên, chúng ta cần xác định hội nhập văn hóa là gì.
Hội nhập văn hóa là gì ?
Hội nhập văn hóa sứ điệp Kitô giáo là đưa sứ điệp
Kitô giáo vào trong nền văn hóa của dân tộc bằng cách diễn tả sứ điệp Kitô giáo
một cách thích ứng với nền văn hóa đó, đồng thời hoàn chỉnh
nền văn hóa đó theo tinh thần Kitô giáo. Như vậy hội nhập văn hóa là một cuộc
hội thoại giữa đức tin và văn hóa, nó có hai chiều:
1. Một đằng là thích ứng
sứ điệp Kitô giáo với văn hóa của dân tộc lãnh nhận sứ điệp, vận dụng những yếu
tố phù hợp với tinh thần Kitô giáo trong văn hóa của dân tộc ấy để diễn tả sứ điệp,
hầu đưa sứ điệp vào lòng dân tộc ấy một cách thuận lợi và dễ dàng. Chẳng hạn
khi diễn tả sứ điệp Kitô giáo cho người Việt Nam, ta nên dùng những ý niệm,
hình ảnh, câu nói quen thuộc đối với người Việt như ca dao tục ngữ, hay những
quan niệm triết lý Đông Phương để giải thích, truyền đạt. Không nên lạm dụng
triết lý Tây Phương hay những hình ảnh tuy quen thuộc với người Tây Phương, nhưng
lại rất xa lạ với người Việt để diễn đạt sứ điệp. Nhờ sự thích ứng đó, Kitô
giáo trở nên dễ hiểu, thân thuộc và dễ chấp nhận với người Việt. Nếu không,
Kitô giáo sẽ trở thành xa lạ, ngoại lai, khó hiểu và khó chấp nhận.
2. Đằng khác hội nhập văn
hóa còn là biến đổi nền văn hóa đó, làm cho nền văn hóa đó hoàn
thiện hơn. Nói khác đi là làm cho nền văn hóa ấy mang nhiều tinh thần Tin Mừng
hơn. Đây chính là mục đích phải đạt được của việc hội nhập văn hóa: đó là phúc
âm hóa nền văn hóa đó, tức làm cho sứ điệp Tin Mừng ảnh hưởng trên quan
niệm, cách suy nghĩ, cách hành xử của dân chúng, làm cho tinh thần Chúa Kitô thấm
nhuần vào lòng dân tộc ấy. Nếu sự thích ứng trên mà không nhằm mục đích này,
hay không đạt được mục đích này, thì đó không phải là hội nhập văn hóa đúng nghĩa.
Đó mới chỉ là hội nhập văn hóa nửa vời, hời hợt.
Trong việc hội nhập sứ điệp Kitô giáo vào nền văn
hóa Việt Nam, một trong những yếu tố quan trọng và nền tảng của nền
văn hóa này mà người Kitô hữu nên lưu ý, đó là đạo hiếu, hay tinh
thần hiếu thảo đối với cha mẹ, ông bà tổ tiên. Tại sao? Vì người Việt cũng như
các dân tộc vùng Viễn Đông này luôn luôn đặt nặng tinh thần hiếu thảo đối với
cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Từ nguồn cội, đạo hiếu luôn luôn là một nền tảng căn bản
cho đạo làm người của người Việt, và nằm trong bản chất văn hóa của người Việt.
Vì thế, việc hội nhập văn hóa sứ điệp Kitô giáo vào Việt Nam nên khởi
đầu từ đạo hiếu, và lấy đạo hiếu làm nền tảng.
Sau đây, chúng ta thử tìm cách áp dụng đạo hiếu
vào vấn đề hội nhập văn hóa sứ điệp Kitô giáo của chúng ta.
Hội nhập văn hóa sứ điệp Kitô giáo với
Đạo Hiếu
Như đã nói trên, hội nhập văn hóa có hai chiều, được
thực hiện trong hai giai đoạn:
• Giai đoạn I là thích ứng cách diễn đạt sứ
điệp Kitô giáo với văn hóa của dân tộc: Trước tiên, ta nhận ra ngay là
có sự phù hợp giữa sứ điệp Kitô giáo và văn hóa Việt Nam trong chủ trương thảo
hiếu với cha mẹ, tổ tiên. Thật vậy, đạo hiếu trong Kitô giáo thật rõ ràng và được
coi là quan trọng.
-Trước hết, đạo hiếu nằm ngay trong thập giới,
là căn bản của luật luân lý Kitô giáo. Thập giới của Kitô giáo được chia làm
hai nhóm: 3 giới đầu liên quan đến Thiên Chúa, 7 giới sau liên quan đến tha
nhân. Giới thứ 4, «thảo kính cha mẹ», là giới đứng đầu nhóm sau. Điều đó
có nghĩa: «thảo kính cha mẹ» là giới luật quan trọng nhất trong các giới
liên quan đến tha nhân.
–Thứ hai là trong các bản văn Kinh Thánh, Cựu Ước
cũng như Tân Ước, có biết bao nhiêu câu hay đoạn văn khuyến khích lòng hiếu thảo
của con cái đối với cha mẹ, nhất là trong sách Châm Ngôn và Huấn Ca (1). Người
Kitô hữu nên khai triển những câu, những đoạn văn đó, để làm nổi bật chủ trương
đạo hiếu của Kitô giáo vốn rất phù hợp với nền văn hóa của dân tộc. Nhờ đó, người
ngoài Kitô giáo dễ chấp nhận Kitô giáo hơn.
• Giai đoạn II của việc hội nhập văn hóa là hoàn
chỉnh nền văn hóa của dân tộc được truyền giáo: Ta thấy dân tộc Việt Nam tuy đặt rất
nặng đạo hiếu, nhưng đạo hiếu ở đây thường chỉ được hiểu là thái độ
phải có đối với cha mẹ hay ông bà tổ tiên ở dưới đất này. Nhưng con người
còn có cha mẹ ở một cấp cao hơn, đó là cha mẹ ở trên trời, hay là cha mẹ sinh
ra vũ trụ vạn vật, mà con người cũng có bổn phận phải thảo hiếu. Niềm tin có Trời
là Đấng tạo dựng vũ trụ rất phù hợp với niềm tin chung của dân tộc.
Đây là một điểm nổi bật khác của nền văn hóa Á Đông, rất thuận lợi cho việc hội
nhập văn hóa sứ điệp Kitô giáo, đó là người ta tin rằng trên đầu mình còn có một
Đấng thiêng liêng, tạo dựng nên vũ trụ. Tuy nhiên, ý niệm về Đấng thiêng liêng
này còn rất mơ hồ, chưa rõ rệt, và Kitô giáo có thể đưa ra một ý niệm rõ rệt hơn.
Kitô giáo đặt rất nặng việc thảo hiếu với Đấng thiêng liêng này, cũng là cha mẹ
của chúng ta, nhưng ở cấp độ cao và rộng hơn cha mẹ ở dưới đất này.
Vì Kitô giáo chú trọng về đạo hiếu và coi đạo hiếu
như nền tảng của mình, nên Kitô giáo quả hết sức phù hợp với tinh thần hiếu thảo
của dân tộc ta. Nhưng Kitô giáo còn cho thấy một chiều kích rộng lớn hơn
của đạo hiếu, giúp quan niệm về đạo hiếu của dân tộc trở nên rộng rãi và
hoàn chỉnh hơn. Vì Kitô giáo quan niệm vũ trụ như một đại gia đình, trong đại
gia đình đó, Thiên Chúa là cha mẹ sinh ra tất cả, và tất cả mọi tạo vật là anh
em. Chính trong tinh thần này mà thánh Phanxicô Assi đã gọi «anh Mặt Trời»,
«chị Mặt Trăng», v.v… Như vậy cha mẹ cũng có nhiều cấp độ, chứ không phải
chỉ có cha mẹ sinh ta ra ở trần gian này mới là cha mẹ. Thần học «Tam Phụ»
của Alexandre de Rhodes (2) cho chúng ta thấy cha mẹ có ba cấp độ: Thượng Phụ,
Trung Phụ và Hạ Phu (3). Vì thế, đạo hiếu cần được thể hiện ở cả ba cấp độ ấy mới
đầy đủ, trọn vẹn.
Như vậy, Kitô giáo chính là một tôn giáo của
đạo hiếu theo nghĩa chính xác nhất của nó, và đạo hiếu này được thể hiện
theo ba chiều kích rõ rệt: đối với Cha trên trời (Thượng Phụ), đối
với đất nước và Giáo Hội (Trung Phụ), và đối với cha mẹ dưới đất (Hạ Phụ). Bổn
phận đối với Cha trên trời là căn bản, các bổn phận sau xuất phát từ bổn phận căn
bản trên.
Trong Kitô giáo, Thiên Chúa và nhân loại được
quan niệm như một đại gia đình, trong đó Thiên Chúa là Cha, và nhân loại là anh
chị em với nhau. Bổn phận đối với cha mẹ bao giờ cũng quan trọng hơn đối với
anh chị em, vì tương quan hàng ngang (giữa anh chị em với nhau) phát sinh từ tương
quan hàng dọc (giữa cha mẹ và con cái). Thật vậy, nếu không cùng do một cha mẹ
sinh ra thì đâu phải là anh chị em với nhau ! Cha mẹ ta dưới đất cũng là con
cái của Cha trên trời, vì thế, theo một ý nghĩa nào đó, các ngài cũng là anh chị
của ta, nhưng là anh chị một cách đặc biệt, vì đã cộng tác với Thiên Chúa để
sinh ra ta. Vì thế, giữa hai thứ hiếu : hiếu đối với Cha trên trời, và hiếu đối
với cha mẹ, thì hiếu trước nặng hơn hiếu sau và là nền tảng cho hiếu sau. Người
Kitô hữu tin tưởng rằng Cha trên trời yêu thương ta gấp trăm ngàn lần cha mẹ dưới
đất yêu thương ta.
Tuy nhiên, không nên nghĩ rằng chủ trương như thế
là người Kitô hữu coi nhẹ chữ hiếu đối với cha mẹ dưới đất hơn các tôn giáo
khác. Thực tế không phải như thế, vì càng yêu Chúa thì người Kitô hữu càng cảm
thấy phải yêu thương nhau, và do đó, càng nhận ra bổn phận phải yêu mến thảo
kính cha mẹ hơn. Tương tự như một người con càng hiếu thảo đối với cha mẹ, thì
tự nhiên càng yêu thương anh chị em hơn. Tình yêu đối với Cha trên trời và đối
với anh chị em đồng loại chỉ là một tình yêu duy nhất, nhưng có hai mặt có
thể phân biệt nhưng không thể tách rời: mặt này lớn thì mặt kia cũng lớn
theo, mặt này nhỏ thì mặt kia cũng nhỏ theo. Do đó, càng mến Chúa đích thực thì
càng yêu thương đồng loại đích thực, hay nói cách cá biệt hơn, càng hiếu thảo với
Cha trên trời thì tất nhiên càng hiếu thảo với cha mẹ dưới đất.
Như vậy, khi đưa quan niệm về đạo hiếu của mình
vào nền văn hóa dân tộc, thì người Kitô hữu đã hoàn chỉnh quan niệm
thảo hiếu đối với cha mẹ vốn sẵn có trong nền văn hóa Việt Nam, làm cho quan niệm
về đạo hiếu của dân tộc trở nên rộng rãi và đầy đủ hơn.
Nhưng điều tiên quyết trong
việc hội nhập văn hóa đối với đạo hiếu là chúng ta phải biết thích ứng với đạo
hiếu trong nền văn hóa của dân tộc. Sau đây, chúng ta thử tìm hiểu một mẫu hội
nhập văn hóa bằng đạo hiếu, đó là mẫu của Phật giáo, một mẫu đáng cho chúng ta
suy nghĩ và rút ra những bài học quí giá.
Một mẫu hội nhập văn hóa bằng đạo hiếu:
Phật giáo
Theo Hòa Thượng Thích Thiện Hoa (4). Phật giáo đã
du nhập vào Việt Nam
vào khoảng cuối thế kỷ thứ 2 sang đầu thế kỷ thứ 3 sau công nguyên. Còn Kitô
giáo mới được truyền vào Việt Nam
một cách sơ khởi khoảng giữa thế kỷ 16, và một cách có hệ thống và qui mô từ thế
kỷ 17. Như thế tại Việt Nam, tuổi của Phật giáo đã được 17 thế kỷ, còn tuổi của
Kitô giáo mới được 3 thế kỷ. Do đó, tại Việt Nam, một cách nào đó, Phật
giáo là một tôn giáo đàn anh của Kitô giáo.
Vì thế, tôi xin đưa ra một mẫu gương hội nhập văn
hóa của Phật giáo vào Việt Nam, để người Kitô giáo có thể nhìn vào đó mà học hỏi,
hoặc rút ra những bài học cho mình. Theo thiển ý tôi, một người em học hỏi kinh
nghiệm của anh mình, hay theo gương của anh mình thì thật là hợp lý và phải lẽ.
Tôi cũng rất mong các Phật tử bằng lòng và cho phép tôi được nêu ra đây một số ưu
điểm của Phật giáo để chúng tôi cùng suy nghĩ và học hỏi. Dẫu sao, điều tôi nói
về Phật giáo ở đây cũng chỉ là một nhận định mang tính cá nhân, nếu có điều gì
sai sót, xin quí vị vui lòng chỉ giáo.
Trong Đạo Phật tuy phần giáo lý căn bản như Tứ
Diệu Đế hay Ngũ Giới, hoàn toàn không đề cập gì đến đạo Hiếu, nhưng trong đời sống
thực tế, đạo hiếu đã được Đức Phật đề cập tới trong nhiều kinh điển, và được thể
hiện ra trong văn hóa dân tộc thành một lễ hội mang tính dân gian, phổ biến : lễ
hội Vu Lan. Đây là một hình thức hội nhập văn hóa rất tuyệt vời của Phật
giáo Đại Thừa, khiến Phật giáo trở thành một tôn giáo rất gần gũi với tâm hồn
người Việt, cũng như những dân tộc Á Đông khác.
Lễ hội Vu Lan là một lễ hội đặc biệt của Phật
giáo Đại Thừa, là tông phái áp dụng triệt để chủ trương «Tùy duyên hóa độ»
của Đức Phật. «Tùy duyên hóa độ» là tùy theo hoàn cảnh, trình độ và căn
cơ của chúng sinh mà thay đổi cách giáo hóa cho thích hợp để đạt được hiệu quả
giáo hóa cao nhất. Vì thế, khi Phật giáo du nhập vào Trung Hoa, Việt Nam và các
nước Á Đông, các nhà hoằng dương đạo pháp đã khéo sử dụng tinh thần đạo hiếu của
các dân tộc Á Đông để biến Phật giáo trở thành một tôn giáo phù hợp với tâm lý
của dân tộc, khiến cho người Á Đông dễ chấp nhận.
Vì thế, khi du nhập vào Việt Nam và các nước Á Đông
khác, Phật giáo đã tìm trong nguồn kinh điển hết sức phong phú của mình những lời
Phật dạy liên quan đến công ơn cha mẹ và bổn phận hiếu thảo của con cái. Những
lời Phật dạy và những câu chuyện liên quan đến vấn đề này cũng rất dồi dào
trong kinh điển Phật giáo. Tôi xin trưng dẫn một vài câu điển hình trong rất
nhiều câu như:
Về công ơn cha mẹ, trong Kinh Tâm Địa
Quán, Phật dạy: «Ơn cha hiền cao như núi cả, ơn mẹ hiền to như biển rộng.
Không gì hơn lòng hiếu thuận, đem vật nhỏ nuôi dưỡng mẹ lành». Cũng trong
kinh này có câu: «Người ta bảo quả đất nặng, nhưng ơn mẹ hiền còn nặng hơn
nhiều. Người ta bảo núi Tu Di cao, nhưng ơn mẹ hiền còn cao hơn nhiều».
Trong Kinh Tăng Chi, Phật nói: «Có hai người mà ta không thể trả ơn được. Đó
là mẹ và cha. Nếu ta một bên vai cõng mẹ, một bên vai cõng cha, và làm như vậy
suốt 100 năm, cho đến khi cha mẹ 100 tuổi, thì cũng chưa đủ để trả ơn mẹ và cha».
Kinh Phân Biệt kể rằng Đức Thế Tôn thường nhắc nhở đến công ơn cha mẹ ngài: «Ta
trải qua nhiều kiếp tinh tấn nay mới thành Phật, toàn là công ơn của cha mẹ ta».
Vì thế, về đạo hiếu, Phật dạy: «Hiếu
là hạnh đứng đầu muôn hạnh». Trong Kinh Nhẫn Nhục, Phật dạy: «Thiện cùng
cực không gì hơn hiếu; ác cùng cực không gì hơn bất hiếu». Trong Kinh Tứ Thập
Nhị Chương, Phật dạy: «Thờ trời đất quỷ thần không bằng có hiếu với cha mẹ.
Cha mẹ là vị thần minh cao nhất trong các thần minh». Việc thờ kính cha mẹ được
đánh giá hầu như ngang với việc thờ kính Phật. Thật vậy, Kinh Đại Tập có chép lời
Đức Thế Tôn: «Gặp thời không có Phật thì hãy phụng thờ cha mẹ. Phụng thờ cha
mẹ cũng như phụng thờ Phật». Những người theo đạo thờ cúng Tổ Tiên chắc chắn
rất tâm đắc với hai câu sau cùng này.
Nhưng giáo lý tuyệt vời về đạo hiếu ấy làm sao đi
vào lòng dân tộc được, nếu không biết đưa nó vào. Phật giáo Đại Thừa đã khéo
léo đưa giáo lý đạo hiếu vào bằng cách tổ chức lễ hội Vu Lan
(Ullambana), biến nó thành một lễ hội mang đậm màu sắc văn hóa dân tộc. Lễ hội
Vu Lan là một lễ hội biểu lộ cụ thể chủ trương hiếu thảo của Phật giáo, nó bắt
nguồn từ một câu chuyện thời Đức Phật (5). Trong lễ hội này, những người tham dự
được nghe những bài thuyết pháp về lòng hiếu thảo đối với cha mẹ và lòng biết ơn
đối với mọi ân nhân, đồng thời còn có những nghi thức chú nguyện cho cha mẹ,
dâng quà cúng dường các chư tăng, những người có công đối với Phật pháp và
chúng sinh (6).
Nói chung, các lễ hội của Phật giáo thường mang
tính cởi mở đón nhận mọi người, kể cả những người ngoài Phật giáo. Trước khi ra
về, mọi người tham dự đều có thể dùng một bữa chay miễn phí với nhau. Do đó, mọi
lễ hội Phật giáo đều mang tính dân gian rất cao. Vì thế, lễ Vu Lan vốn chỉ là một
lễ hội riêng của Phật giáo, nhưng rất phù hợp với tinh thần chung của quần
chúng, nên đã trở thành một lễ hội dân gian, đã đi vào văn chương bình
dân của người Việt. Thật vậy, trong ca dao Việt Nam có câu:
«Tháng sáu buôn nhãn bán trâm,
Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân»,
«Tháng sáu buôn nhãn bán trâm,
Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân»,
hay
«Dù ai buôn bán đâu đâu,
Cứ rằm tháng bảy mưa Ngâu là về».
«Dù ai buôn bán đâu đâu,
Cứ rằm tháng bảy mưa Ngâu là về».
Lễ hội Vu Lan không chỉ đề cao đạo hiếu, mà vào
dịp này, các bài thuyết pháp tại các chùa còn nhắc nhở đến bổn phận của mọi người
là phải biết ơn tất cả những người đã làm ơn cho mình. Có 4 trọng
ân được nhắc tới: (a) ơn cha mẹ, (b) ơn Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng), (c) ơn quốc
gia xã hội, (d) ơn thầy bạn. Lòng biết ơn là một trong những đức tính quan trọng
của đạo làm người, vốn tiềm tàng trong tâm hồn rất phong phú tình cảm của người
Á Đông. Nhấn mạnh tới những yếu tố này sẽ làm cho người Á Đông cảm thấy đạo Phật
rất gần gũi, rất hợp với lòng mình, với khuynh hướng của mình.
Nhờ đưa giáo lý đạo hiếu và lòng biết ơn của Phật
vào lòng dân tộc mà đạo Phật đã chiếm được cảm tình của dân Việt, vì đạo hiếu
và lòng biết ơn đã tiềm tàng sẵn trong tâm thức người Việt. Khi Phật giáo sử dụng
yếu tố văn hóa này để đưa Phật giáo vào lòng dân tộc, thì những giáo huấn của
Phật giáo cũng làm cho lòng hiếu thảo của người Việt Nam trở nên sâu sắc, vững
chắc hơn, bám rễ sâu vào trong văn hóa Việt Nam hơn. Nhờ đó việc giáo hóa chúng
sinh trở nên dễ dàng thuận lợi hơn. Từ đó, Phật giáo có thể ảnh hưởng sâu đậm
trên văn hóa Việt Nam, và
làm cho văn hóa Việt Nam
mang rất nhiều sắc thái Phật giáo.
Đạo hiếu trong việc phúc âm hóa tại
Việt Nam
Nói người thì cũng phải nói ta. Truyền thống
Kitô giáo dạy về đạo hiếu và nhấn mạnh tới đạo hiếu rất nhiều. Tuy nhiên, khi
nhìn lại quá khứ, ta thấy thật đáng tiếc là trong quá trình phúc âm hóa, Kitô
giáo đã bị hiểu lầm là một tôn giáo đi ngược với Đạo Hiếu, thậm
chí là một tôn giáo chủ trương bất hiếu, vì đã từng cấm không cho người Kitô hữu
Á Đông thờ cúng tổ tiên như mọi người Á Đông thường làm. Điều này đã khiến cho
nhiều người Trung Hoa và Việt Nam bất mãn và ác cảm với Kitô giáo, chẳng hạn như
nhà nho Nguyễn đình Chiểu đã biểu lộ sự bất mãn rất lớn của ông qua câu thơ đầy
mỉa mai:
«Thà đui mà giữ đạo nhà
«Còn hơn có mắt ông cha không thờ».
«Còn hơn có mắt ông cha không thờ».
Khi người ta chưa hiểu Kitô giáo là gì, đương
nhiên người ta sẽ phán đoán theo nề nếp tư tưởng cũ của mình. Do đó, chỉ cần
nghe nói Kitô giáo cấm thờ cúng tổ tiên, thì biết bao nhiêu người Việt – nhất
là những người thấm nhuần tinh thần đạo Tổ Tiên, Khổng giáo, và Phật giáo, vốn
coi chữ hiếu là quan trọng hàng đầu – đã coi Kitô giáo là tà đạo, không
nên theo, thậm chí nên cấm. Rất nhiều người đã không thể gia nhập Kitô giáo cũng
vì lệnh cấm thờ cúng tổ tiên của Giáo Hội. Biết bao người hiểu Kitô giáo và muốn
gia nhập Kitô giáo, nhưng không thắng nổi áp lực tâm lý của những người trong
gia đình hay gia tộc cho rằng theo Kitô giáo là bỏ cha bỏ mẹ, là bất hiếu với tổ
tiên, và một người như thế thì không xứng đáng là người nữa.
Đây quả là một sự hiểu lầm giữa các vị lãnh đạo
Công giáo thời đó và người Á Đông trong việc thờ cúng tổ tiên. Đây là chuyện đáng
tiếc gây ra do sự khác biệt về văn hóa và tập tục giữa Đông và
Tây, đặc biệt giữa quan niệm của Kitô giáo và của các dân tộc Á Đông.
Theo giáo lý, người Kitô hữu chỉ thờ phượng duy
nhất một mình Thiên Chúa là chủ tể dựng nên muôn loài vạn vật, và
không được phép thờ phượng bất kỳ ai khác. Ngoài Thiên Chúa ra, thì tất cả đều
là thụ tạo, cũng được Thiên Chúa dựng nên như chúng ta. Chúng ta có thể tôn
kính những bậc thánh, những vĩ nhân, các vị minh quân, các anh hùng dân tộc, những
ân nhân của mình hay của dân tộc, hoặc ông bà tổ tiên mình, chứ chúng ta không được
tôn thờ họ.
Phân biệt giữa Đấng tạo dựng (Créateur)
và những gì được tạo dựng (créés), để rồi từ đó phát sinh ra hai thái độ
phân biệt đối với hai phạm trù đó thì thật là hợp lý. Điều đó còn hợp lý hơn sự
phân biệt giữa vua và quan, giữa cha mẹ và người anh cả. Có người dân trung
thành nào lại tôn kính vua làm sao thì cũng tôn kính các quan khác như vậy
không? Có người con hiếu thảo nào lại tôn kính người anh hay chị cả mình ngang
với cha mẹ mình không? Đối xử một cách bình đẳng với hai người vốn không bình đẳng
như thế là một sự xúc phạm đối với người lớn hơn. Điều này bất cứ người Đông Phương
hay người Việt nào cũng đều chấp nhận.
Thật ra, người Việt hay người Á Đông nào cũng
phân biệt Trời, Đấng sinh ra vạn vật, và những vật do Trời dựng nên. Nhưng theo
văn hóa của họ, về mặt lễ nghi, việc thờ Trời là dành cho vua,
vua có nhiệm vụ đối với Trời, còn người dân có nhiệm vụ đối với vua. Đối với Trời,
người dân chỉ có nhiệm vụ sống thuận ý Trời: «Thuận Thiên giả tồn, nghịch
Thiên giả vong». Vì thế, Trời tuy cao nhất, nhưng người dân không được phép
thờ Trời theo lễ nghi, mà chỉ có vua tức Thiên Tử (Con Trời) được phép thờ mà
thôi (7). Đấy cũng là một cách biểu lộ sự tôn kính cao cả nhất đối với Trời: điều
này xem ra không hợp lý đối với não trạng văn hóa của người Tây Phương, nhưng lại
rất hợp lý theo não trạng văn hóa Đông Phương, và để hội nhập văn hóa, chúng ta
phải đặc biệt tôn trọng sự khác biệt về văn hóa.
Quan niệm về sự kính trọng của người Á Đông là «kính
nhi viễn chi»: càng kính trọng thì càng phải giữ một khoảng cách. Vua cũng
chỉ là người thôi, thế mà ở Á Đông, người dân phải kính trọng vua đến độ không được
phép nhìn, ngay cả các quan cũng không được phép nhìn trực diện, tâu cái gì thì
cũng phải quay mặt đi chỗ khác mà tâu. Đối với vua mà còn phải giữ một độ xa như
thế, huống gì đối với Trời, còn cao hơn vua hàng ngàn bậc (8). Vì không được
thờ Trời, nên những lễ nghi tỏ sự tôn kính nhất đáng lẽ dành cho Trời,
nếu không được dùng cho Trời nữa, thì đương nhiên phải được dành cho tổ tiên hoặc
người đã khuất là những người xứng đáng nhất (9).
Việc thờ cúng tổ tiên hay người chết với những lễ
nghi như thế không có nghĩa là coi tổ tiên ngang bằng với Trời. Việc thờ cúng đó
theo tập tục văn hóa cổ truyền thực ra là một hình thức kính nhớ nhiều hơn là
thờ phượng hiểu theo nghĩa Tây Phương (adorer hay worship), là sự thờ phượng mà
người Kitô hữu chỉ dành cho Thiên Chúa. Việc thờ cúng tổ tiên vừa mang tính văn
hóa vừa mang ít nhiều tính tôn giáo. Việc thờ cúng trong đạo tổ tiên có thể phần
nào tương tự như việc thờ kính Đức Mẹ, các thánh, các thiên thần …
trong Kitô giáo, trong đó, có sự cầu nguyện, xin ơn, vì tin tưởng các ngài có
khả năng phù hộ hay ban ơn cho mình cách nào đó, chứ không coi các ngài là Chúa
Tể Tối Cao của muôn loài.
Nhưng dưới con mắt các thừa sai Tây Phương, thì
việc thờ cúng đó là một hình thức tôn thờ mà đúng ra chỉ được phép dành cho
Thiên Chúa. Chính vì thế, các vị giáo hoàng thời đó đã nghiêm cấm việc thờ cúng
tổ tiên là vì các ngài hiểu đó là một lễ nghi tôn giáo mang tính thờ phượng, nhưng
thực ra sự thờ kính ấy chỉ là một tập tục mang tính văn hóa dân tộc nhiều hơn
là tôn giáo. Nếu có tính tôn giáo thì sự thờ cúng ấy hoàn toàn không cùng một
loại với việc thờ phượng đặc biệt mà người Kitô hữu dành riêng cho Thiên Chúa.
Về sau, khi Giáo Hội hiểu được như thế, thì việc
thờ kính ấy đã được Giáo Hội chấp nhận như trong huấn dụ Plane Compertum
ngày 8-12-1939, cho phép Giáo Hội Trung Hoa và các Giáo Hội lân cận được
phép thờ kính tổ tiên. Như vậy, sự việc đáng tiếc trên đã được giải quyết
một cách êm thắm, tốt đẹp.
Bây giờ, thiết tưởng người Kitô hữu nên sửa lại
những đáng tiếc trong quá khứ, không phải chỉ bằng việc cải chính hay biện hộ
cho những hiểu lầm đã xảy ra, mà còn bằng một cái gì tích cực hơn về đạo hiếu.
Vì thế, chúng ta cần nhấn mạnh về đạo hiếu trong việc truyền giáo và mục vụ.
Cần nhấn mạnh đạo hiếu trong việc
truyền giáo và mục vụ
Hiện nay, nền tảng gia đình trên thế giới đang bị
lung lay và đe dọa trầm trọng. Chẳng hạn tại Âu châu, có tới 50% các gia đình đã
thành lập nhưng bị tan rã vì đi đến ly dị. Để tránh vấn đề này, người ta đã đưa
ra nhiều giải pháp không hợp luân lý: cứ sống độc thân nhưng lại thoải mái
trong quan hệ tình yêu và tính dục, hôn nhân thử, sống chung với nhau không hôn
nhân v.v… Gia đình tan rã đưa đến nhiều bất hạnh trong xã hội, nhất là về phía
các trẻ em không được chăm sóc đầy đủ vì không đủ cả cha lẫn mẹ. Vì thế, Giáo Hội
đang chủ trương củng cố lại nền tảng gia đình này.
Tại Việt Nam, khủng hoảng về gia đình cũng đang
bắt đầu. Vì thế, Giáo Hội Việt Nam
cũng cần củng cố nền tảng gia đình, nhưng nên bắt đầu từ đâu? Tôi nghĩ ở Việt Nam, chúng ta
có một thuận lợi rất lớn để bảo vệ và củng cố nền tảng gia đình, đó là tinh
thần đạo hiếu trong tâm thức dân tộc. Chúng ta có thể bắt đầu củng cố gia đình
bằng việc phát triển đạo hiếu, vì:
+khi làm tròn phận sự đối với cha mẹ, người ta sẽ
có một nền tảng giúp họ làm tròn phận sự đối với gia đình họ tạo
lập, nghĩa là đối với vợ / chồng, con cái họ. Việc đối xử hợp lý và đầy tình thương
với cha mẹ là một kinh nghiệm và cũng là bài thực tập cho mọi người trẻ sống hợp
lý và yêu thương trong gia đình mà mình thành lập.
+sống hiếu thảo với cha mẹ, người ta sẽ tập được
một số đức tính cần thiết để sống đời sống gia đình: tình yêu
chân thật, vị tha, hy sinh, kiên nhẫn, nhịn nhục, tôn trọng người khác, hy sinh
ý riêng, v.v… Ngược lại, nếu không hiếu thảo đối với cha mẹ, người ta sẽ khó có
thể thật sự yêu thương và hy sinh cho vợ con hay chồng con mình, và khó có được
những đức tính cần thiết trên. Thật vậy, cha mẹ là người yêu thương, hy sinh
cho mình và có công với mình nhất mà mình không yêu thương thì làm sao có thể
yêu thương và hy sinh cho người khác một cách chân thật được?
+khi con cái thật sự hiếu thảo với cha mẹ, việc giáo
dục của chúng trong gia đình sẽ đạt được kết quả tốt đẹp:
nhờ sự hướng dẫn đầy kinh nghiệm của cha mẹ, con cái biết vâng lời sẽ bước vào đời
sống gia đình một cách tốt đẹp, và dễ thành công và hạnh phúc trong đời sống
gia đình. Thật vậy, cha mẹ là người có rất nhiều kinh nghiệm trong đời sống gia
đình, và có thể đã từng gặp nhiều cay đắng thất bại trong đời sống gia đình. Vì
thế, cha mẹ có thể chia sẻ kinh nghiệm, dạy cho con cái những bài học mình đã học
được bằng đau khổ và nước mắt, và chỉ dẫn cho con cái con đường tốt nhất để
thành công trong hôn nhân, và tránh được những thất bại. Những đứa con hiếu thảo,
nghĩa là biết vâng lời, biết coi trọng lời dạy dỗ của cha mẹ, chắc chắn sẽ dễ
thành công trong đời sống gia đình hơn.
Như vậy, củng cố đạo hiếu chính là củng cố nền tảng
gia đình, và đó cũng là một cách hội nhập văn hóa sứ điệp Kitô giáo của chúng
ta vào lòng dân tộc. Vì thế, chúng ta nên đề cao đạo hiếu như một phương
cách nền tảng để sống đời Kitô hữu. Vì bản chất của Kitô giáo là đạo
hiếu: hiếu với Cha trên trời, và thể hiện lòng hiếu thảo ấy qua sự yêu thương
anh chị em đồng loại. Đó là cấp độ vĩ mô của đạo hiếu. Còn cấp độ vi mô là thảo
hiếu với cha mẹ dưới đất và yêu thương anh chị em ruột thịt của mình. Cấp độ vi
mô hữu hình phản ánh cấp độ vĩ mô vô hình, nghĩa là lòng hiếu thảo với cha mẹ dưới
đất là hình ảnh lòng hiếu thảo với Cha trên trời.
Thật vậy, nếu cha mẹ hữu hình dưới đất là người
yêu thương mình và hy sinh cho một cách cụ thể trước mắt mà mình không hiếu thảo,
thì làm sao mình có thể hiếu thảo thật sự với người Cha vô hình ở trên trời mà
sự hy sinh của Ngài đối với ta phải nhìn bằng đức tin mới thấy được? Tương tự
như lời của thánh Gioan tông đồ: «Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại
ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em
mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy»
(1 Ga 4, 20). Vì thế, có thể nói không sai rằng tình yêu đối với tha nhân, đặc
biệt lòng hiếu thảo đối với cha mẹ dưới đất, chính là phản ảnh hay thước đo
của tình yêu hay lòng hiếu thảo đối với Cha trên trời. Do đó, ai càng yêu mến
Thiên Chúa, thì tình yêu ấy càng phải được chứng tỏ qua lòng hiếu thảo đối với
cha mẹ mình, và qua sự hy sinh cho tha nhân là con cái của cùng một Cha trên trời.
Kết luận
Để kết luận, chúng ta thử đưa ra một số những việc
làm cụ thể để có thể đưa tinh thần đạo hiếu của Kitô giáo vào trong lòng dân tộc,
và để cùng hòa nhập với các tôn giáo khác trong tinh thần đạo hiếu.
1. Thanh Minh và Vu Lan (10) là những lễ hội
mang tính văn hóa dân tộc nhấn mạnh đến lòng thảo hiếu đối với cha mẹ hay tưởng
nhớ đến những vị tổ tiên đã khuất bóng. Vì thế, tuy chúng ta đã có cả tháng 11 để
kính nhớ và cầu nguyện cho cha mẹ, ông bà tổ tiên đã khuất, nhưng chúng ta nên đồng
hành cùng với dân tộc mình trong tinh thần đạo hiếu này bằng cách:
+ phát động nơi người Kitô hữu
lòng hiếu thảo và sự tưởng nhớ cầu nguyện cho tổ tiên vào những lễ hội dân tộc ấy,
và vào ngày cuối năm là dịp đa số người Việt tưởng nhớ đến cha mẹ còn sống và
ông bà tổ tiên đã khuất bóng một cách đặc biệt.
+ có những nghi thức phụng vụ và á
phụng vụ thích hợp song song với những nghi thức của Phật giáo và đạo thờ cúng
Tổ Tiên vào những dịp lễ hội này (11).
2. Khuyến khích làm bàn thờ gia tiên
trong gia đình. Đây là một cách làm cho người Kitô hữu gần gũi với đồng bào
mình ở trong các tôn giáo. Vì trong các gia đình người Việt, thường có bàn thờ
tổ tiên. Vả lại, qua dấu hiệu này, các tín hữu các tôn giáo khác cũng cảm thấy
gần gũi với người Kitô hữu trong việc hiếu thảo này.
3. Tưởng nhớ đến công ơn tổ tiên của dân tộc
Việt Nam
cùng với các anh hùng dân tộc vào dịp giỗ tổ Hùng Vương ngày 10-3 âm lịch mỗi năm.
Nếu mỗi gia đình đều có tổ tiên để kính nhớ, thì cả dân tộc cũng thế. Thiết tưởng
chúng ta cũng nên tưởng nhớ và cầu nguyện cho tổ tiên dân tộc mình đặc biệt
trong thánh lễ ngày giổ tổ. Chẳng lẽ chúng ta chỉ dành bổn phận cúng giỗ tổ
tiên dân tộc cho những anh em tôn giáo khác làm, còn mình thì không sao?
4. Làm bàn thờ tổ tiên của dân tộc
trong các nhà thờ. Nếu mỗi gia đình nên có một bàn thờ gia tiên, thì tại mỗi
nhà thờ, nên có một bàn thờ kính nhớ tổ tiên của cả dân tộc ở một chỗ nào đó
thuận tiện, thích hợp và danh dự, nhất là tại những nhà thờ lớn có tầm quan trọng
quốc gia (12). Khuyến khích tinh thần thảo hiếu đối với tổ tiên cả nước là một
cách gợi lên ý thức dân tộc, củng cố lòng yêu nước thương nòi, bày tỏ được lòng
biết ơn đối với tiền nhân. Nếu chúng ta biết tôn kính những vị thánh ở tận đâu đâu,
nhưng tổ tiên của dân tộc rất gần gũi với chúng ta mà chúng ta lại quên không
nhớ đến, thì làm sao đồng bào của chúng ta cảm phục chúng ta được ?
5. Lễ Vu Lan cũng là dịp các chủ chăn nhắc nhở
giáo hữu về lòng biết ơn đối với những ân nhân của mình: ơn Thiên
Chúa, ơn Giáo Hội, ơn tổ quốc, ơn xã hội, v.v… Đồng thời khuyến khích có những
hành vi cụ thể biểu lộ lòng biết ơn ấy.
PHẦN CHÚ THÍCH
(1) Một số câu Kinh Thánh nói
–về việc thảo kính cha mẹ: Xh 20,12; Lv 19,3.32; Đnl 5,16; Cn 1,8-9; 6,20-23; 23,22; Mt 15,4; Mc 10,19; Lc 18,20; Ep 6,1-3; Cl 3,20; 1 Tm 3,4;
–về việc nghe những giáo huấn khôn ngoan của cha mẹ: Cn 4,1-11,20-22; 5,1-2; 8,21-33; 27,11;
–về bổn phận vâng lời cha mẹ: Tv 119,9; Cn 3,1-3; 6,20-25.
–về gương thảo hiếu đối với cha mẹ của Chúa Giêsu: Ga 19,26-27; của bà Rút: R 1,16-18; v. v…
(1) Một số câu Kinh Thánh nói
–về việc thảo kính cha mẹ: Xh 20,12; Lv 19,3.32; Đnl 5,16; Cn 1,8-9; 6,20-23; 23,22; Mt 15,4; Mc 10,19; Lc 18,20; Ep 6,1-3; Cl 3,20; 1 Tm 3,4;
–về việc nghe những giáo huấn khôn ngoan của cha mẹ: Cn 4,1-11,20-22; 5,1-2; 8,21-33; 27,11;
–về bổn phận vâng lời cha mẹ: Tv 119,9; Cn 3,1-3; 6,20-25.
–về gương thảo hiếu đối với cha mẹ của Chúa Giêsu: Ga 19,26-27; của bà Rút: R 1,16-18; v. v…
(2) Thần học «Tam Phụ» được nói đến lần đầu
tiên trong cuốn «Phép Giảng Tám Ngày» (1651) của Alexandre de Rhodes, với
những từ như «Ba Đấng Bề Trên» , «Ba Đấng thưởng phạt» , đi kèm với
ba điều «phải» hay ba nghĩa vụ. Thần học này còn được nói đến trong «Hội
đồng Tứ giáo» (không rõ tác giả, thế kỷ 18), trong thơ văn của linh mục Đặng
đức Tuấn (1806-1874) và trong một số bản văn của Nguyễn trường Tộ (1830-1871).
Các tác giả trên không viết nên một thần học về Tam Phụ, nhưng đã có những ý niệm
chung về bộ ba những người cha này.
(3) Thượng Phụ là Cha ở trên, tức Ông Trời, hay
Thiên Chúa. Trung Phụ là Cha ở giữa, tức Cha của đất nước, hay Vua hoặc Hoàng Đế
cai trị nước. Hạ Phụ là Cha ở dưới, tức Cha Mẹ sinh ra ta ở dưới đất.
(4) THÍCH THIỆN HOA, Phật học Phổ thông,
Thành Hội Phật giáo TP. Hồ chí Minh ấn hành 1992, quyển hai, trang 53-54.
(5) Xin đọc phần nguồn gốc lễ hội ở phần đọc
thêm cuối bài.
(6) Xin đọc phần mô tả lễ hội ở phần đọc
thêm cuối bài.
(7) Tại Việt Nam, vua thờ Trời tại Đàn Nam Giao,
hiện vẫn còn di tích tại Huế.
(8) Đức Kitô đến làm cho khoảng cách giữa Thiên
Chúa và con người gần hẳn lại bằng cách dạy người ta gọi Thiên Chúa là «Cha»
, điều này có thể bị người Do Thái xưa – cũng là người Đông Phương – coi là một
xúc phạm đối với Thiên Chúa. Hơn thế nữa, Ngài còn cho biết Thiên Chúa ngự ngay
trong thâm cung tâm hồn con người.
(9) Tương tự như có hai món quà biếu cho hai người.
Cứ bình thường thì món quí hơn dành cho người lớn hơn, và món ít quí dành cho
người nhỏ hơn. Nhưng nếu người lớn hơn không nhận, thì món quà quí nhất kia đương
nhiên được chuyển xuống người nhỏ hơn. Biếu món quà quí hơn cho người nhỏ hơn
trong trường hợp này không có nghĩa là coi thường người lớn hơn.
(10) Lễ Vu Lan là một lễ hội tuy có nguồn gốc Phật
giáo, nhưng nay đã trở thành một lễ hội dân gian, mang tính văn hóa dân tộc
(11) Chẳng hạn vào ngày rằm tháng 7 âm lịch:
–tại nhà thờ, có thánh lễ trọng thể cầu nguyện cho cha mẹ còn sống, và ông bà tổ tiên đã khuất, với những panô hay biểu ngữ về lòng hiếu thảo
–tại nhà thờ hay tại mỗi gia đình (hoặc liên gia đình), có buổi đọc kinh chung ban tối đặc biệt cầu nguyện cho cha mẹ tổ tiên.
–tại các gia đình, nên trưng hoa đèn một cách đặc biệt tại bàn thờ gia tiên. –v. v…
–tại nhà thờ, có thánh lễ trọng thể cầu nguyện cho cha mẹ còn sống, và ông bà tổ tiên đã khuất, với những panô hay biểu ngữ về lòng hiếu thảo
–tại nhà thờ hay tại mỗi gia đình (hoặc liên gia đình), có buổi đọc kinh chung ban tối đặc biệt cầu nguyện cho cha mẹ tổ tiên.
–tại các gia đình, nên trưng hoa đèn một cách đặc biệt tại bàn thờ gia tiên. –v. v…
(12) Nếu thấy không thuận lợi trong nhà thờ, thì
có thể trong khuôn viên nhà thờ.
Nguyễn chính Kết
Nguyễn chính Kết
PHẦN ĐỌC THÊM
NGUỒN GỐC LỊCH SỬ CỦA LỄ HỘI VU LAN
NGUỒN GỐC LỊCH SỬ CỦA LỄ HỘI VU LAN
hay Vu
Lan Bồn là phiên âm từ tiếng Phạn Ullambana, dịch sang tiếng Hán Việt
là Giải Đảo Huyền, nghĩa là cởi trói cho người bị treo ngược. Đảo Huyền
là hình phạt đau khổ nhất cho loài ngạ quỉ (quỉ đói). Người bị treo ngược không
hề được ăn uống nên bị đói khát giày vò suốt ngày rất đau khổ. Vì thế, Ullambana
hay Giải Đảo Huyền có nghĩa cứu vớt những vong hồn đang phải chịu những
hình phạt đau đớn vì nghiệp chướng do mình gây nên khi còn ở trần gian. Vì thế,
lễ Vu Lan còn gọi là lễ Xá Tội Vong Nhân.
Tương truyền, lễ Vu Lan có nguồn gốc từ Đức Phật,
khi Ngài chỉ cho đệ tử của Ngài là Mục Kiền Liên (Maudgalyayana) cách cứu mẹ
mình khỏi hình phạt của kiếp ngạ quỉ. Về sau, các Phật tử cũng áp dụng phương
cách đó để cứu những vong hồn thân nhân của mình.
Kinh Vu Lan (Ullambanapatra-sutra) chép rằng:
Mục Kiền Liên, một trong những vị đại đệ tử của Phật, nổi tiếng nhất về lòng hiếu thảo và về thần thông, sau khi chứng quả La Hán, bèn nhớ đến công ơn cha mẹ và muốn báo đền. Nhờ có đạo nhãn, ông thấy mẹ mình đang bị đọa làm loài ngạ quỉ, thân thể ốm gầy, da bọc xương, bụng lớn đầu to, đói khát suốt năm không được ăn uống. Thương xót quá, ông bèn vận thần thông, bưng chén cơm đang ăn đến chỗ mẹ ở để dâng mẹ. Bà mẹ vì quá đói khát, nên khi được cơm, lòng tham nổi lên, sợ người cướp giật, lấy tay trái che giấu chén cơm, còn tay mặt bốc ăn. Bởi lòng tham độc ác trong tiền kiếp nổi bừng lên, nên vừa đưa cơm vào miệng, thì cơm hóa thành lửa, bà chẳng ăn được chút nào.
Mục Kiền Liên, một trong những vị đại đệ tử của Phật, nổi tiếng nhất về lòng hiếu thảo và về thần thông, sau khi chứng quả La Hán, bèn nhớ đến công ơn cha mẹ và muốn báo đền. Nhờ có đạo nhãn, ông thấy mẹ mình đang bị đọa làm loài ngạ quỉ, thân thể ốm gầy, da bọc xương, bụng lớn đầu to, đói khát suốt năm không được ăn uống. Thương xót quá, ông bèn vận thần thông, bưng chén cơm đang ăn đến chỗ mẹ ở để dâng mẹ. Bà mẹ vì quá đói khát, nên khi được cơm, lòng tham nổi lên, sợ người cướp giật, lấy tay trái che giấu chén cơm, còn tay mặt bốc ăn. Bởi lòng tham độc ác trong tiền kiếp nổi bừng lên, nên vừa đưa cơm vào miệng, thì cơm hóa thành lửa, bà chẳng ăn được chút nào.
Mục Kiền Liên hết sức đau khổ, khóc lóc thảm thiết.
Ông trở về bạch Phật, thuật lại câu chuyện và cầu Phật chỉ dạy phương pháp cứu độ
thân mẫu. Phật dạy rằng:
«Này Mục Kiền Liên, mẹ của ông do lòng tham
lam độc ác đã tạo ra tội lỗi nặng nề trong nhiều kiếp, nay sinh trong ác đạo
làm loài ngạ quỉ, nên không thể một mình ông cứu độ được. Dẫu lòng hiếu thảo của
ông vô cùng lớn lao cũng không sao chuyển được hoàn cảnh, chẳng khác gì chiếc
thuyền con, không thể chở được tảng đá lớn. Vậy ông phải nhờ oai thần của chúng
tăng trong mười phương, «thập phương chúng hội» đức lớn như biển, mới cứu độ mẹ
ông được giải thoát. Ta sẽ chỉ cho ông phương pháp cứu độ mẹ ông.
«Này Mục Kiền Liên, ngày rằm tháng bảy là ngày tự
tứ (13) của chư tăng khắp nơi, sau ba tháng an cư kiết hạ (14), các chư tăng tiến
bộ rất nhiều trên đường tu học. Nhân ngày ấy, ông hãy làm lễ Vu Lan Bồn để báo
hiếu cho mẹ ông.
«Ông hãy sắm sửa đủ các món ăn chay, năm thứ
trái cây, cùng hương dầu đèn nến, giường chõng chiếu chăn, mùng mền quần áo,
thau rửa mặt, khăn lau tay … Tóm lại, là đủ bốn món cúng dường quí báu trên đời.
Rồi ông phải thân hành đi rước các vị đại đức trong mười phương, hoặc những vị
thiền định trong núi rừng chứng được bốn quả thánh, hoặc các vị bồ tát thị hiện
làm thầy tỳ kheo … Ông phải thành tâm kính lễ trai tăng cúng dường và thỉnh cầu
chư tăng chú nguyện (15) cho vong linh mẹ ông được thoát khổ. Nhờ công đức chí
thành chú nguyện, vong linh mẹ ông sẽ được siêu thoát. Cũng như tảng đá dù nặng
trăm cân, nhưng có nhiều người khiêng thì dời đi đâu cũng được».
Mục Kiền Liên vâng lời Phật dạy, đến ngày rằm
tháng bảy làm lễ Vu Lan, sắm đủ các vật liệu, rước chư tăng đến cúng dường, nên
vong mẫu của ông thoát khỏi kiếp ngạ quỷ sinh về cảnh giới lành. Sau đó, Mục Kiền
Liên hỏi Phật xem những Phật tử khác muốn cứu độ cha mẹ mình có thể dùng phương
pháp đó không. Phật trả lời:
«Quí lắm! này Mục Kiền Liên, đời sau, nếu có
ai vì lòng hiếu thảo muốn đền đáp công ơn cha mẹ hiện tại hay quá khứ, thì cứ
ngày rằm tháng bảy làm lễ Vu Lan này để cúng dường trai tăng. Nhờ công đức của
chư tăng chú nguyện, cha mẹ hiện tại được tăng phúc thọ, khỏi những điều tai họa
khổ não, còn cha mẹ bảy đời trước thì khỏi bị khổ ngạ quỉ, được sinh trong cõi
Nhân hay Thiên, hưởng phúc vui vẻ không cùng».
Từ đó về sau, cứ đến ngày rằm tháng bảy, các
hàng Phật tử chí hiếu đều làm lễ Vu Lan để đền đáp công ơn cha mẹ dẫu còn sống
hay đã mất. Ngoài ra, họ còn tưởng nhớ và chú nguyện cho cửu huyền thất tổ, các
ân nhân, thân nhân, bạn bè, những người quen biết đã quá cố sớm được vãng sinh
nơi Phật Quốc.
Phật giáo chân truyền dạy như thế. Nhưng tín ngưỡng
nhân gian có pha trộn nhiều điều khác. Chẳng hạn, do ảnh hưởng của Đạo giáo, quần
chúng cho rằng ngày ấy, ở âm phủ, quỉ sứ mở cửa địa ngục cho các vong hồn bay về
dương thế để tha hồ ăn hưởng, rồi sau đó lại phải bay về âm phủ. Vì thế, họ nảy
sinh lòng thương xót đối với các vong hồn. Dần dà tục cúng cô hồn tháng bảy trở
thành một tập tục dân gian.
MÔ TẢ LỄ HỘI VU LAN
Đầu tháng 7 âm lịch, Phật tử cũng như nhiều người
ngoài Phật giáo, bắt đầu tưởng nhớ tới tổ tiên, cha mẹ, những người thân quen đã
khuất bóng, một cách đặc biệt hơn bình thường. Nhiều người ăn chay, niệm Phật,
làm phúc, đến chùa nghe thuyết pháp. Để chuẩn bị cụ thể hơn, người ta để dành
tiền, quần áo, thực phẩm, thuốc men để cúng dường (= kính biếu) chư tăng ni vào
ngày lễ, đồng thời để mua những đồ cúng tổ tiên trên bàn thờ suốt hai tuần cuối
tháng 7.
Từ ngày áp lễ (ngày 14-7), bầu khí ở các chùa
chiền đã bắt đầu nhộn nhịp tưng bừng hẳn lên. Nhiều Phật tử đã đến chùa để đảnh
lễ Phật và cầu nguyện. Chung quanh chùa, người ta bày bán la liệt nhang hương,
kinh Phật (nhất là kinh Vu Lan), các lồng chim (để phóng sinh), v.v… Bầu khí lễ
lạc ở các chùa càng lúc càng làm cho tâm hồn người Phật tử lâng lâng, sốt sắng,
như tiếp xúc được với thế giới vô hình.
Ngày rằm, chùa càng lúc càng đông người. Tới khoảng
11 giờ trưa, chùa đầy người: lễ Vu Lan bắt đầu cử hành. Ngoài sân cũng như
trong chùa, các trường phương bảo cái (= cờ Phật giáo dạng phướn có lọng che) rải
rác khắp nơi. Các cột trong chùa cũng treo cờ. Bàn thờ Phật, bàn thờ các Tổ đèn
nến sáng chưng, hoa quả, nhang khói nghi ngút.
Một hồi trống bát nhã nổi lên báo hiệu lễ Vu Lan
bắt đầu, mọi người im lặng. Trong chùa, ngoài các Phật tử đứng đối diện với tượng
Phật ở chính điện, còn có nhiều tăng ni bận lễ phục trang trọng được mời ngồi
trên ghế trước mặt các Phật tử. Vị sư trụ trì đứng ra nói vài lời khai lễ, rồi
mời một vị thượng tọa trong số các tăng ni có mặt tại đó khai pháp. Vị này giảng
ý nghĩa của lễ Vu Lan. Sau thời pháp là thời kinh: mọi người đều cùng nhau tụng
kinh Vu Lan – nói về công ơn cha mẹ và bổn phận phải hiếu thảo đối với cha mẹ –
một cách nhịp nhàng theo nhịp mõ.
Tụng kinh Vu Lan xong, các tăng ni được mời sang
phòng Thọ Trai ăn một bữa cơm chay. Bất kỳ ai có mặt tại đó, dù không phải
là Phật tử, nếu muốn, đều có thể cùng dùng bữa với các tăng ni (16). Sau lễ thọ
trai, là nghi thức cúng dường còn gọi là lễ Tạ Pháp cũng tại phòng đó.
Các tăng ni được các Phật tử cúng dường mỗi người một gói. Trong gói đó có thể
là quần áo, mùng mền, thuốc men, thực phẩm, tiền bạc, hay những đồ vật thường
dùng. Sau khi vị thượng tọa đại diện cho các tăng ni được cúng dường cám ơn các
Phật tử, lễ Vu Lan chấm dứt. Tất cả mọi người ra về trong bầu khí tưng bừng vui
vẻ. Buổi lễ kéo dài từ 11g00 đến 12g30 hay tới 1g00 trưa.
Những tăng ni được cúng dường thường là những vị
có uy tín, được các Phật tử yêu mến, ở những vùng chung quanh, cũng có khi ở những
tỉnh xa được mời tới. Những quà tặng đó là do các Phật tử tùy lòng hảo tâm đóng
góp. Ý nghĩa của việc cúng dường là để tỏ lòng biết ơn đối với Tam Bảo (Phật–Pháp–Tăng)
mà các vị là đại diện. Tại các chùa lớn, số các tăng ni được mời có thể lên tới
hàng trăm. Tại các chùa nhỏ, có thể khoảng 20, 30 vị.
Sau lễ, các Phật tử đi vãng cảnh chùa, hết chùa
này tới chùa khác. Họ có thể đi theo đoàn thể do chùa tổ chức để tham quan các
cảnh chùa ở xa. Đó vừa là một cuộc hành hương, cầu nguyện, vừa là một cuộc giải
trí mang tính cách hội hè.
Kể từ ngày rằm tháng 7 cho đến cuối tháng, các
Phật tử ngày nào cũng đọc kinh Vu Lan tại bàn thờ gia đình hay tại chùa, đồng
thời ăn chay niệm Phật, làm phúc bố thí, để tưởng nhớ, chú nguyện, và hồi hướng
công đức cho cha mẹ ông bà và tất cả những người quá cố khác, kể cả những vong
linh mồ côi vất vưởng đó đây (gọi là cô hồn). Trong nửa tháng này, bàn thờ Phật
trong nhà lúc nào cũng trưng bày nhang đèn, bông hoa và ngũ quả (5 loại trái
cây). Theo phong tục, gia chủ tùy nghi chọn riêng một ngày nào đó trong nửa
tháng này để làm lễ cúng cô hồn ở phía trước nhà. Cúng xong, họ thường tung gạo,
muối, trái cây, bánh kẹo, tiền bạc … – vừa được dùng làm lễ vật để cúng – ra bốn
phương với ý nghĩa để các cô hồn hưởng dụng.
CHÚ THÍCH
Phần Đọc Thêm Về Nguồn Gốc Lịch Sử Của Lễ Hội Vu Lan
Phần Đọc Thêm Về Nguồn Gốc Lịch Sử Của Lễ Hội Vu Lan
(13) Ngày Tự Tứ: Ngày chư tăng phê bình sửa
lỗi cho nhau.
(14) An Cư Kiết Hạ: Thời gian (ba tháng)
Phật qui định chư tăng ở mỗi địa phương phải hội về một nơi thuận tiện để
chuyên tu mỗi năm, từ 16-4 đến 15-7 âm lịch.
(15) Chú nguyện: Chú = chú ý, tập
trung tư tưởng hay năng lực tinh thần vào việc gì; Nguyện = cầu mong, ước
muốn. Chú nguyện là tập trung hết năng lực tinh thần của mình để ước muốn
điều gì.
Chú nguyện khác với cầu nguyện ở chỗ: chú nguyện
là dùng chính sức mạnh tinh thần của mình để thực hiện hay đạt được điều mình
muốn; còn cầu nguyện là xin Thiên Chúa hay thần linh thực hiện điều mong ước ấy.
(16) Đây là một đặc điểm rất hay của Phật giáo: vào những
ngày mùng 1 và ngày rằm mỗi tháng, mọi người tới tham dự các lễ hội – dù không
phải là Phật tử – đều có thể dùng cơm chay trong chùa trước khi ra về. Đây là một
điều gây rất nhiều thiện cảm nơi người dân, khuyến khích cả những người ngoài
tôn giáo đến dự các lễ hội, nhờ đó họ được nghe những điều hay lẽ phải trong Phật
giáo, và giáo lý của Phật ảnh hưởng trên đời sống họ.
Nguyễn Chính Kết