Bước vào ngàn năm thứ ba, nhìn tổng thể, xã hội loài người có nhiều thay đổi theo hướng tích cực trong hầu hết mọi lãnh vực. Trong bối cảnh xã hội phát triển, cuộc sống con người được mở ra với nhiều hy vọng, nhiều hứa hẹn, nhưng cũng nhiều thách đố và không ít rủi ro. Chính vì thế, con người dù dư thừa vật chất, nhưng vẫn cảm thấy buồn phiền, chán nản, lo âu, bất an... Có nhiều người rất thành công trong sự nghiệp, lắm bạc nhiều tiền, cũng như có được một gia đình yên ấm, nhưng lại cảm thấy trống vắng trong tâm hồn. Bên cạnh đó, cùng với phát triển kinh tế, cuộc sống sung túc hơn thì đồng thời, con người cũng chạy theo lối sống thực dụng, hưởng thụ và ích kỷ hơn.
Ra như mối tương quan tình thân dễ bị lãng quên hơn. Lại nữa, con người
ngày nay cũng có nhiều thay đổi trong lối suy nghĩ, quan niệm sống và
các giá trị tinh thần cũng đang được nhìn nhận lại một cách tự do hơn,
thông thoáng hơn. Đặc biệt trong đời sống tâm linh, niềm tin vào các tôn
giáo đang được con người đặt vấn đề. Họ nghi ngờ về một sức mạnh nào đó
từ bên ngoài tác động vào đời sống của con người.
Đứng trước thực trạng của một xã hội mà con người muốn phủ nhận Thiên
Chúa và chạy theo vật chất, giới trẻ Công giáo nói chung và các tu sĩ
trẻ nói riêng sẽ gặp rất nhiều những thách đố trong đời sống. Với cái
nhìn chủ quan, bài viết nêu lên những thách đố mà người tu sĩ sẽ phải
đối diện khi sống giữa lòng xã hội hôm nay. Những gì trình bày ở đây ra
như tiêu cực, nhưng hy vọng đó là số ít, còn thực tế thì phần nhiều là
những gương sáng cho con người thời đại.
Thách đố khi hội nhập với xã hội
Ngày nay, người tu sĩ trẻ được mời gọi sống hội nhập để làm chứng cho
niềm tin và những giá trị cao quý của Kitô giáo. Họ được kêu gọi hãy dám
từ bỏ những giá trị vật chất, là những gì đáng được hưởng, để dấn thân
cho một lý tưởng cao đẹp hơn. Nói thế không phải phủ nhận những giá trị
vật chất đem lại cho đời tu. Thật thế, có rất nhiều phương tiện hữu ích
trong xã hội hiện đại đang phục vụ cho sứ mạng của người tu sĩ. Vấn đề
đặt ra là, người tu sĩ hội nhập với xã hội hay là bị hoà tan trong xã
hội – một xã hội hưởng thụ và tục hoá?
Trong thực tế, có không ít người sống đời tu nhưng đã bị cuốn vào vòng
xoay của lối sống thực dụng. Không ít người chọn đời tu để mong thoát ra
khỏi những khó khăn về đời sống vật chất. Họ chọn nhà Dòng như là điểm
dựa để tiến thân. Họ chạy theo thời đại với những toan tính thiên về vật
chất. Họ cũng cố gắng tìm cho mình những gì người khác có. Về bằng cấp,
họ cũng tìm kiếm như mọi người, nhưng không phải để phục vụ mà là để
khoe mẽ, để tiến chức. Về vật chất, nhiều vật dụng không cần thiết hoặc
chưa cần thiết cho cuộc sống thì họ cũng cố gắng phải có để bằng anh,
bằng em. Khi bản thân hoặc gia đình họ không có điều kiện, họ cố gắng
chạy chọt, xin xỏ để đạt được những gì mình muốn. Có nhiều người đưa ra
những lý luận rất hay để biện minh cho những hành động chạy theo lối
sống hưởng thụ của mình.
Thế còn những người mang nơi mình một lý tưởng cao đẹp trong đời sống
dâng hiến thì sao? Họ phải sống thế nào trước một xã hội đề cao cái tôi
cá nhân và sự hưởng thụ này? Có lẽ, người tu sĩ trẻ cần hội nhập để cùng
đồng hành và chia sẻ với con người, giúp họ và giúp mình tìm được giá
trị đích thực về đời sống con người. Người tu sĩ trẻ hội nhập để chia sẻ
niềm vui và nỗi buồn của kiếp người. Họ hoà đồng mà không bị hoà tan
trong vũng bùn của cuộc đời nhiều tội lỗi. Người tu sĩ trẻ có thể đến
với những bóng đêm của cuộc đời để kéo con người trong đó ra ánh sáng,
nhưng họ không ở luôn trong bóng đêm ấy. Người tu sĩ trẻ có thể đến với
những người yếu đuối để nâng họ đứng lên, chứ không bị những yếu đuối ấy
nhận chìm…
Thiết nghĩ, người chọn đời tu vẫn đang sống trong xã hội này, không thể
tách rời. Vì thế, họ cần tận dụng những thuận lợi mà xã hội đem lại để
phục vụ cho sứ mạng của mình. Đồng thời, họ cần phát huy hơn nữa những
giá trị tích cực mà cơ chế thị trường, xã hội thực dụng, công nghệ -
khoa học đem lại để phần nào làm hạn chế những điều tiêu cực do chính cơ
chế ấy gây ra. Hoà nhập được như thế thì thực trạng xã hội sẽ không còn
là một thách đố với người tu sĩ trẻ nữa, mà trở thành một phương tiện
hữu dụng để họ rao giảng sứ điệp Tin Mừng của Thiên Chúa cho con người
hôm nay.
Thách đố khi sống các nhân đức
Bên cạnh việc sống hội nhập với xã hội, người tu sĩ còn được mời gọi
thể hiện đời sống chứng tá của mình bằng việc thực thi hoàn trọn các
nhân đức, để làm gương sáng cho mọi người. Đây cũng là một thách đố lớn
đối với người tu sĩ trong một xã hội đang có quá nhiều những cám dỗ bủa
vây.
Các nhân đức hướng thần
Việt Nam là một đất nước đa tôn giáo, trong đó có những tôn giáo đã
được lưu truyền từ rất lâu, chẳng hạn như Phật giáo và Nho giáo. Ảnh
hưởng của những tôn giáo này rất lớn đối với người Việt Nam, và đã ăn
sâu vào trong tâm thức của nhiều người. Tư tưởng của các tôn giáo đó thì
bình dân, giản dị, dễ gần và phù hợp với người nông dân Việt Nam. Trong
khi đó, Công giáo với những ý tưởng thần học quá trừu tượng, qúa cao
siêu không đủ sức nuôi tâm hồn những người tín hữu nói chung và người tu
sĩ nói riêng trong cuộc chiến đấu trước những thách đố, cám dỗ của đời
thường. Từ đó, người tu sĩ có thái độ gồng lên để chu toàn nghĩa vụ đầy
công đức thiêng liêng nhưng không cảm nhận được những nét đẹp cao quý
khiến cho đời tu trở nên nặng nề, ì ạch và “khó thở”[1].
Bên cạnh đó, họ lại thấy các đấng xưa nay vốn là thần tượng của mình,
lại có những hành xử quá ư là con người. Bề trên thì chuyên quyền, người
dưới thì luồn cúi… Họ ra sức tìm kiếm mà chẳng thấy Chúa đâu. Họ kêu
gào mãi mà Chúa vẫn lặng thinh. Thế là, Đức Tin chao đảo, họ nghi ngờ
không biết Chúa có thật hay không. Trong khi đó, khoa học đang dần giải
thích được hầu hết các hiện tượng mà xưa nay vẫn nghĩ là Chúa đã làm.
Chính những chán nản, căng thẳng, khủng hoảng trong đời tu làm cho người
tu sĩ trẻ trở nên tuyệt vọng không biết bám víu vào ai, dẫn đến những
thách đố về đức cậy.
Trước một thế giới đầy biến động, sự hy vọng tan vỡ mỗi ngày. Người tu
sĩ thay vì phải trở nên dấu chỉ và biểu hiện của niềm hy vọng cho người
tín hữu, thì chính người tu sĩ lại đánh mất đi niềm hy vọng vào Đức
Giê-su Ki-tô. Mỗi khi thất vọng, đau buồn, họ không còn tìm đến Chúa
nữa. Bây giờ, họ xây đắp hy vọng của mình nơi những người có thể cho họ
được an toàn trong đời tu. Họ hy vọng vào mối quan hệ thân thiết với các
đấng trong Dòng, trong Giáo hội, để họ được ưu đãi, cất nhắc lên làm
việc này, việc kia. Họ hướng hy vọng của mình vào nơi chính quyền, nhà
nước cốt làm sao để đi tu dễ dàng, mau chóng được phong chức. Họ còn hy
vọng vào những người bảo trợ (cha bố, sơ mẹ), là những người bảo đảm tài
chính sẽ chu cấp cho họ được cuộc sống an nhàn, có phương tiện tối tân
để làm việc.[2]
Nhưng khi nói tới việc làm, thì sự dấn thân đã không còn gắn liền với
người tu sĩ nữa. Ai cũng muốn an phận, dính vào thêm mệt ; bề trên giao
việc thì từ chối, sợ không làm được. Hình ảnh người tu sĩ dấn thân giữa
đời, là người của tình yêu giờ không còn nữa. Người tu sĩ được mời gọi
trở nên giống Đức Kitô tình yêu, nhân từ, sức mạnh và sự hiểu biết giờ
còn đâu? Và đây cũng chính là thách đố về đức mến.
Trong thực tế, nhiều người trẻ đi tu là để tìm kiếm một vị thế trong
Dòng hoặc thể hiện mình trong các tổ chức của Giáo Hội. Đôi khi, ý tưởng
khởi đầu đời tu là sự quý mến hay khâm phục một tu sĩ đạo đức thánh
thiện nào đó. Thế nhưng, khi đã vào tu thì họ lại mong nhanh chóng được
làm linh mục để hoạt động, để được nhiều người biết đến, để được mọi
người đánh giá bằng khả năng tổ chức sinh hoạt bên ngoài, chứ không phải
qua đời sống tâm linh thánh thiện. Họ thích xuất hiện trước cộng đồng
hơn là đọc kinh cầu nguyện. Họ thích phục vụ ư? Tốt đấy, nhưng họ lại
không phục vụ theo lòng mến giống như Chúa Kitô, mà chỉ vì mục đích vụ
lợi, đạt được cái gì đó cho bản thân. Trong đời sống chung, người tu sĩ
trẻ chỉ biết sống với tinh thần cạnh tranh thay vì giúp đỡ nhau ; thay
vì sống tình huynh đệ cộng đoàn thì họ lại chỉ trích người này, tẩy chay
người nọ. Họ thiếu lòng cảm thông và sự chia sẻ cùng anh chị em trong
cộng đoàn. Lòng mến Chúa và yêu thương huynh đệ không còn nữa thì đời
sống của người tu sĩ trở nên nặng nề và không còn ý nghĩa nữa.
Các nhân đức nhân bản
Hơn bao giờ hết, thế giới này là một thế giới “bầm dập” vì những chuyển
biến, đang cần những chứng nhân thành tâm thiện chí sống động. Chính vì
thế, hơn ai hết, người tu sĩ phải thể hiện sự trưởng thành trong đời
sống nhân bản của chính mình. Họ cần phải có những động lực để thúc đẩy
tham dự vào những bước tiến vĩ đại của nhân loại, bằng việc sống ơn gọi
đích thực, bằng việc huấn luyện lương tâm, cảm thức về những giá trị đạo
đức và tinh thần, nhất là làm chứng tá cho những giá trị luân lý.[3]
Đứng trước thực trạng đó, người tu sĩ trẻ làm sao kiện toàn lý trí
trong điều khiển các hành vi? Làm sao tập trung ý chí trong việc chu
toàn nghĩa vụ đối với tha nhân? Vững vàng không tháo lui trước những
gian nguy và kiểm soát được cảm xúc không chiều theo bản năng mù quáng?
Đây chính là thách đố về luân lý cho người tu sĩ trẻ.
Trước tiên, họ cần sự khôn ngoan để đọc ra được các dấu chỉ của thời
đại theo ý định Thiên Chúa như Phúc Âm đã từng nói đến “Khôn ngoan như
con rắn, đơn sơ như bồ câu” (Mt 10,16). Đó là sự khôn ngoan trong tương
quan với Thiên Chúa. Thế nhưng, người tu sĩ trẻ ngày nay dường như tìm
kiếm một sự khôn ngoan mà nói như thánh Phaolô là sự khôn ngoan của thế
gian, là khôn ngoan danh vọng và chức quyền. Sự khôn ngoan đóng một vai
trò quan trọng trong đời sống của người tu sĩ. Họ dùng để phân biệt điều
tốt và điều xấu, nhưng hiện nay sự phân biệt đó xem ra rất chủ quan. Họ
còn dùng sự khôn ngoan nhằm nắm bắt cơ hội cho bản thân mà không màng
đến quyền lợi của người khác, gây nên những bất công trong đời sống cộng
đoàn.
Kế đến, sự công bằng cũng là thách đố cho người tu sĩ khi mà cá nhân
chủ nghĩa được đề cao. Mối tương quan giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân
với cộng đoàn cũng đòi hỏi sự công bằng, nhưng là đòi hỏi theo cách cá
lớn ép cá bé, hay bề trên cho anh xe gắn máy thì phải cho tôi vi tính
hoặc cái gì đó tương đương.
Thêm nữa, bước vào đời tu, người trẻ phải lì, phải liều để dấn thân.
Thiên Chúa không để ai bị thiệt hay chịu đựng quá sức mình: “Ơn Thầy đủ
cho con vì sức mạnh Thầy biểu lộ trong sự yếu đuối” (2Cr 12,9). Đó là
lòng can đảm và sức mạnh Chúa ban để chúng ta vượt qua chông gai thử
thách. Tuy nhiên sự can đảm không chỉ có thế, mà đôi khi phải chịu đựng
gian khổ nữa. Thử hỏi bây giờ có mấy người dám dấn thân vào những nơi
cực khổ? Ngay trong cộng đoàn, họ dùng sự can đảm để từ chối, để rút lui
trước những khó khăn, dùng sức mạnh để đối đầu anh em mình.
Cuối cùng, dù sống giữa đời thường hay trong đời sống tu trì, thì việc
giữ chừng mực trong hết mọi hành động vẫn là điều quan trọng. Hơn nữa,
là người tu sĩ thì chúng ta phải làm gương, nếu không chúng ta sẽ giảng
dạy như thế nào khi mà cuộc sống chúng ta chẳng ra làm sao. Người tu sĩ
cần phải kìm hãm những nhu cầu tự nhiên trong khuôn khổ chừng mực.
Thách đố khi sống ba lời khuyên Tin mừng
Trong một xã hội, đang khi con người đề cao tiền bạc, vật chất, thì đời
sống tu trì lại mời gọi người tu sĩ sống lời khấn khó nghèo triệt để ;
đang khi con người sống hưởng thụ, thì người tu sĩ lại được mời gọi sống
khiết tịnh vì Nước Trời ; đang khi con người đề cao cái tôi cá nhân,
thì người tu sĩ lại được mời gọi sống vâng phục tuyệt đối theo gương Đức
Ki-tô, “Đấng đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá” (Pl 2,8).
Đó chính là thách đố khi người tu sĩ giữ ba lời khuyên Tin mừng.
Khó nghèo
Không ai trong chúng ta muốn sống nghèo, nhất là trong xã hội mà người
ta đang đề cao tiền bạc, hưởng thụ và cái nghèo bị coi là điều bất hạnh.
Người tu sĩ trẻ cũng đang bị cuốn vào vòng xoáy đó và đây là một thách
đố. Thực tế, nếu người tu sĩ trẻ tự nguyện sống nghèo, sống giản dị thì
cũng rất khó, bởi những tác động của nội cảnh và ngoại cảnh. Nhìn ra xã
hội, chúng ta thấy đủ loại hình thức quảng cáo, tiếp thị khuyến khích
người trẻ hưởng thụ những tiện nghi vật chất, nhưng lại hạ thấp và quên
đi những giá trị tinh thần cao đẹp của con người. Nhìn vào bạn bè cùng
lứa tuổi thì họ đã có sự nghiệp, gia đình ổn định, còn mình thì chẳng có
gì cả. Từ những so sánh tính toán đó, người tu sĩ trẻ dễ rơi vào những
cám dỗ về phương tiện vật chất. Họ nghĩ muốn học hành, phục vụ cần phải
có vi tính xách tay, xe gắn máy thật “xịn”để dễ dàng di chuyển chỗ này
chỗ kia, làm cho được việc. Ban đầu, ý tưởng có đủ điều kiện vật chất để
thi hành công việc là một điều tốt. Thế nhưng sau đó, ý hướng này đã bị
lạm dụng bởi những nhu cầu không chính đáng. Những tài sản có được do
khéo xin xỏ thì ai cũng bo bo giữ cho riêng mình, không dám chia sẻ cùng
anh chị em trong cộng đoàn. Cứ thế, người tu sĩ bị bao phủ bởi những
vật chất có được, khó lòng từ bỏ. Lời khấn khó nghèo trở nên nặng nề
hoặc có thể bị xuyên tạc để trở nên dễ dàng hơn.
Vâng phục
Thế hệ trẻ ngày nay tỏ ra đầy tính cách duy lý, họ tìm cho mình một lập
trường và có thể tự cho rằng đã đủ để mạnh dạn phê bình người khác.
Nhiều tu sĩ trẻ dựa theo lập trường, theo kiến thức, sự hiểu biết của
mình mà không chịu nhận mình sai sót. Có nhiều người còn lợi dụng tinh
thần tự do dân chủ để phản đối lại những quyết định của bề trên. Họ lẩm
bẩm kêu ca khi bị truyền phải vâng phục, “bằng mặt mà không bằng lòng”.
Họ quên rằng, lời khấn vâng phục mà họ đã tuyên khấn là vâng phục Thiên
Chúa, và bề trên chỉ là người thay mặt. Một cách nào đó, mọi người, đặc
biệt các vị bề trên cũng đã có cái nhìn cởi mở hơn trong khi thực hiện
quyền bính trên các người trẻ. Họ tôn trọng những giá trị riêng biệt của
từng cá nhân. Họ lắng nghe người trẻ một cách tích cực và cảm thông
hơn. Thế nhưng, không vì thế mà các tu sĩ trẻ quá coi thường, thiếu sự
tôn trọng.
Khiết tịnh
Khi cuộc sống tu trì gặp khủng hoảng, căng thẳng, không còn niềm vui,
mà cộng đoàn không thể chia sẻ thì người tu sĩ trẻ dễ đi tìm sự khoả lấp
từ bên ngoài. Khi tâm hồn trống vắng, họ sẽ tìm đến với những niềm vui
mà chính họ cũng không nghĩ là sẽ gặp trong cuộc đời. Bên cạnh đó, các
phương tiện truyền thông như báo chí, truyền hình, Internet… truyền tải
những hình ảnh độc hại, nội dung đồi truỵ dễ lôi kéo người tu sĩ trẻ vào
việc thoả mãn những nhu cầu tâm sinh lý khi đang khủng hoảng. Họ không
còn cảm nhận được niềm vui khi phục vụ người khác, đặc biệt những người
bất hạnh. Họ không thấy được hạnh phúc khi đến với tha nhân, khi sống
cùng cộng đoàn. Họ coi cộng đoàn là địa ngục, tha nhân là gánh nặng. Họ
vùng vẫy trong đam mê, trong yếu đuối của xác thịt. Lời khấn khiết tịnh
đã trở nên gánh nặng, đè bẹp cuộc đời đáng ra rất hạnh phúc của họ.
Tạm Kết
Cuộc sống chúng ta luôn có những thách đố và khủng hoảng. Hành trình
làm con Chúa cũng tồn tại nhiều nghi ngờ và e ngại. Dấn thân theo Đức
Kitô, để trở thành người môn đệ đích thực của Người cũng thật chông gai
và nhiều cam go. Chúng ta luôn mong tìm được một hướng đi nào đó thích
hợp, bớt được những khó khăn thì mãn nguyện và hạnh phúc. Thế nhưng,
điều này còn nhiều bước cản, vì con người thì giới hạn mà khát vọng lại
vô cùng.
Vì thế, người tu sĩ trẻ ngày nay cần phải đọc ra được những dấu chỉ của
thời đại. Họ cần đọc được ý Chúa muốn nói với mình điều gì qua những
biến cố, những sự kiện của bản thân, của những người xung quanh, cũng
như những sự kiện của xã hội. Nếu con người không thể sống thiếu cơm
bánh, thì có thể nói người tu sĩ trẻ cũng không thể sống thiếu Lời Chúa:
“Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng
Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4,4). Nhờ Lời Chúa, người tu sĩ sẽ biết được sự
yếu đuối của bản thân, để biết cậy dựa, tin tưởng vào một mình Chúa mà
thôi.
Cuối cùng, người tu sĩ trẻ cần thực hiện ba điểm chính yếu của đời tu,
đó là: tìm kiếm Thiên Chúa, sống tinh thần hiệp thông huynh đệ và phục
vụ người khác. Những người sống trong ơn gọi tu trì hãy cố gắng làm
chứng cho mọi người thấy rằng, ai cũng được mời gọi nên thánh. Đồng
thời, họ phải là gương sáng cho người Kitô hữu lẫn người ngoài Kitô giáo
về lòng yêu thương tha nhân, nhất là những anh chị em gặp nhiều đau khổ
trong xã hội. Trong một thế giới không còn ý thức mạnh mẽ về sự hiện
diện của Thiên Chúa nữa, thì người tu sĩ phải trở thành chứng nhân đầy
sức thuyết phục về một Thiên Chúa Tình Yêu và về đời sống vĩnh cửu mai
sau.
Trong đời sống cộng đoàn, người tu sĩ phải làm chứng về các giá trị của
tình huynh đệ và sức biến đổi của Tin Mừng. Tất cả những ai bước vào
đời tu đều được mời gọi trở thành người đi đầu trong việc tìm kiếm Chúa,
một sự tìm kiếm luôn làm dao động lòng người và được bày tỏ hết sức rõ
ràng bằng nhiều hình thức tu đức và đời sống tâm linh. Sống cộng đoàn,
làm chứng trong thinh lặng và bình an là hình thức thôi thúc mọi người
xây dựng một sự hòa hợp lớn hơn trong xã hội. Sống nghèo khó và từ bỏ
trong thinh lặng, sống thanh khiết và chân thành, sống quên mình trong
tuân phục, tất cả những điều ấy trở nên lời chứng hùng hồn cho bối cảnh
ngày nay.[4]
(trích Nội San Chia sẻ số 62)
Văn Hoàng, OP.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét